TS Mai Anh: Tôi không muốn dùng từ thất bại về Đề án 112

TS Mai Anh: Tôi không muốn dùng từ thất bại về Đề án 112

Như báo Nhân Dân đã đưa tin, Cơ quan điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Vũ Ðình Thuần, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, kiêm Trưởng ban điều hành Ðề án Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005 (Ðề án 112) cùng bảy bị can khác về hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ và cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng. Ngày 17-9, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký các quyết định tạm đình chỉ công tác đối với hai ông Lương Cao Sơn, nguyên là Phó vụ trưởng, Ủy viên Thư ký Ban điều hành Ðề án 112 giai đoạn 2001 - 2005, và ông Hoàng Ðăng Bảo, nguyên là chuyên viên Vụ Cải cách hành chính để phục vụ công tác điều tra làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện Ðề án 112.

Cũng trong ngày, Văn phòng Chính phủ đã có Tờ trình Thủ tướng về việc tạm đình chỉ công tác đối với ông Vũ Ðình Thuần, Trưởng ban điều hành Ðề án 112 Chính phủ. Ngày 19-9, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng ký Quyết định số 1257 đình chỉ công tác ông Vũ Ðình Thuần, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Trưởng ban điều hành Ðề án 112 giai đoạn 2001-2005 để phục vụ công tác điều tra, làm rõ những sai phạm khi thực hiện đề án này.

Ðể bạn đọc có thêm thông tin, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn TS Mai Anh, nguyên Ủy viên Ủy ban KH-CN và Môi trường Quốc hội về một số vấn đề chung quanh dự án này.

PV: Thủ tướng Chính phủ đã kết luận Ðề án 112 không mang lại tiện ích, ứng dụng nào cho công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Chính phủ và đề nghị ngừng triển khai. Xin ông cho biết, nguyên nhân thất bại của đề án này là gì?

Nguyên nhân có nhiều, tôi chỉ xin nêu lên một vài nguyên nhân để cùng rút kinh nghiệm:

- Vì ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý hành chính Nhà nước (QLHCNN), nên cốt lõi là thủ tục hành chính, là vấn đề cải cách hành chính, việc lựa chọn chính xác một vài khâu trong thủ tục hành chính để tin học hóa... là những việc phải đi trước một bước hay đồng bộ với tin học hóa; nhưng thời gian qua chưa có sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa Cải cách hành chính và việc Tin học hóa QLHCNN.

- Bộ máy triển khai thực hiện có những bất cập, vì Ban điều hành không có chức năng quản lý Nhà nước, nhưng vẫn điều hành. Bên cạnh đó, Ban này lại chưa có những quan hệ thích hợp với Bộ quản lý chuyên ngành và Ban chỉ đạo Quốc gia về CNTT giai đoạn 2000-2005 để có sự hỗ trợ, cộng tác cần thiết.

- Các vấn đề liên ngành là cơ sở để triển khai đề án: Như hạ tầng đường truyền quốc gia, chuẩn thông tin điện tử trong giao dịch hành chính, chuẩn công nghệ, chuẩn giao thức, chuẩn mở của hệ thống..., hạ tầng thông tin quốc gia: Cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu liên thông đa ngành, các cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, định mức chi tiêu trong CNTT,v.v. đã không được triển khai trước một bước .

Tôi không muốn dùng từ thất bại. Nhìn nhận một cách khách quan, Ðề án 112 cũng đã làm được một số việc; có một số mục tiêu chưa đạt được hoặc có những mục tiêu mới đạt một phần theo kế hoạch.

PV: Tuy nhiên, kết cục của Ðề án 112 đã là điều có thể được báo trước?

Trước đây tôi cũng đã có ý kiến rằng nếu Ðề án 112 là một đề án quốc gia về chính phủ điện tử thay vì tin học hóa hành chính nhà nước thì sẽ có thuận lợi hơn trong việc đặt mục tiêu và triển khai. Tin học hóa quản lý hành chính là một khái  niệm rộng, khó có tiêu chí cụ thể để đánh giá. Nhưng một đề án về Chính phủ điện tử thì đã có chuẩn, có bước đi, có tiêu chí đánh giá và các mô hình được quốc tế công nhận. Việc hợp tác, hỗ trợ từ quốc tế cũng sẽ thuận lợi hơn. Ở đây, chúng ta cũng cần thích ứng khái niệm "Chính phủ điện tử" cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Vì hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước của ta không chỉ có Chính phủ.

PV: Nhiều ý kiến cho rằng, sự thay đổi về công nghệ, thiết bị, máy là cần thiết, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cần cải thiện các thủ tục hành chính phức tạp. Ông nghĩ sao về điều này?

Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm này, CNTT là một tiến bộ khoa học kỹ thuật dùng để phục vụ các ngành kinh tế, xã hội. Ðể ứng dụng CNTT vào quản lý hành chính Nhà nước thì quy định, thủ tục hành chính, quy trình công tác, các vấn đề liên quan tới cải cách hành chính mới là quan trọng, CNTT chỉ là phương tiện kỹ thuật. Cải cách hành chính phải đi trước một bước, hay đồng bộ với các ứng dụng. Các đề án, chương trình ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội thường rất dễ có sự lẫn lộn giữa mục tiêu và phương tiện để đạt mục tiêu là CNTT. Thường thì hình ảnh, phương thức hoạt động, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội sẽ thay đổi thế nào nhờ ứng dụng CNTT, bao nhiêu loại công văn giấy tờ sẽ được hủy bỏ, bao nhiêu cuộc họp trực tiếp được loại trừ... được mô tả rất mờ trong  phần mục tiêu của Ðề án. Nhưng số máy tính được trang bị, số mạng được thiết lập, số phần mềm phải xây dựng, số chuyên gia CNTT cần được đào tạo, tốc độ đường truyền tăng bao nhiêu, v.v. thường được mô tả rất rõ nét.

Tới đây, dù có Ðề án xây dựng Nhà nước điện tử, Chính phủ điện tử hay Hành chính điện tử thì luôn phải hiểu rằng CNTT chỉ là công cụ. Cải cách hành chính để phục vụ nhân dân tốt hơn mới là đích cuối cùng. Không có CNTT vẫn phải cải cách tốt. Có công nghệ chúng ta sẽ làm tốt hơn. Trong cả chuỗi công tác về điều hành hành chính không phải chỗ nào cũng tin học hóa được. Nếu nghĩ rằng tin học hóa cả 100% là sẽ lại thất bại.

PV: Thực tế, Ðề án 112 được triển khai trong gần năm năm. Theo quan điểm của ông, chúng ta phải nhìn nhận nó thế nào?

Như trên đã nói,  Ðề án 112 đã làm được một số việc như: đã hình thành được mạng đường trục của Chính phủ kết nối từ Văn phòng Chính phủ đến văn phòng ủy ban nhân dân các tỉnh và các bộ; đã nâng cao được nhận thức, tư duy về ứng dụng CNTT trong các bộ, ngành đã thay đổi tích cực; hầu hết các Bộ, UBND các tỉnh/TP đã  có mạng LAN, đã có sự chia sẻ thông tin trên mạng trong nội bộ các cơ quan này; hầu hết các Bộ đều có website và hệ thống email riêng không  phải dùng hòm thư miễn phí như Yahoo; nhiều tỉnh, thành phố đã có cổng thông tin điện tử, v.v. Ðây cũng là đánh giá trong báo cáo giám sát của Ủy ban KH-CN và Môi trường Quốc hội khóa XI.

Theo tôi cần rà soát, đánh giá những vấn đề đã làm được để có biện pháp duy trì, phát huy và bảo đảm tính kế thừa khi làm tiếp; tránh lãng phí kinh phí của Nhà nước.

PV: Ông vừa nói về Chính phủ điện tử. Vậy theo ông, Chính phủ điện tử nên  được hiểu thế nào? Quan hệ giữa Chính phủ và Chính phủ điện tử?

Chính phủ điện tử là một thuật ngữ được dịch từ tiếng Anh là E Government. Tiếng Anh cũng còn có từ E Governance. Ở Việt Nam từ thường dùng nhất là Chính phủ điện tử, song cũng có kiến nghị dùng từ Chính quyền điện tử hay  quản lý nhà nước điện tử. Nhưng dùng từ nào đi chăng nữa thì nội hàm của nó cũng là: Việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động trong các Cơ  quan Nhà  nước, giữa các Cơ quan Nhà nước, giữa Cơ quan Nhà nước với công dân nhằm làm tăng hiệu quả hoạt động của các Cơ quan Nhà nước, tăng mối quan hệ giữa Cơ quan Nhà nước và công dân, phục vụ nhân dân tốt hơn nhờ phương tiện là CNTT. UNDP cũng đã xuất bản Sổ tay xây dựng Chính phủ điện tử tại các nước đang phát triển, hướng dẫn các bước đi để triển khai việc này. Với khái niệm ấy, không có thực thể Chính phủ điện tử bên cạnh Chính phủ, mà chỉ có Chính phủ  ứng dụng CNTT trong hoạt động của mình theo một phương thức, cách làm mà nhiều nước gọi là Chính phủ điện tử.

PV: Như vậy, yêu cầu đối với công chức trong Chính phủ điện tử sẽ như thế nào?

Có thể nói nhiều về yêu cầu, tiêu chí của công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước có ứng dụng CNTT định hướng Chính phủ điện tử. Theo tôi, có hai yêu cầu quan trọng là: Một là, công chức phải có trách nhiệm cao khi thực thi nhiệm vụ theo chức trách mình đảm nhiệm. Phải thật sự có ý thức phục vụ nhân dân, và phục vụ nhân dân tốt hơn qua sử dụng các công cụ là CNTT. Hai là, phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý. Có khả năng khai thác các tài nguyên thông tin và phương tiện kỹ thuật CNTT được cơ quan trang bị.

PV: Xin cảm ơn ông.

Ðề án 112 có tên gọi đầy đủ là "Ðề án Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005". Mục tiêu chung của Ðề án là hình thành hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp. Ðề án 112 được coi là một trong những đề án quan trọng về ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý và cải cách hành chính trên phạm vi cả nước. Giai đoạn 1 (từ 2001-2005) đã kết thúc và được đánh giá là giai đoạn không thành công, gây lãng phí hàng tỷ đồng với tổng số tiền đầu tư quá lớn nhưng hiệu quả công việc không nhiều. Ngày 19-4-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì cuộc họp về

Ðề án 112 và có ý kiến chỉ đạo không tiếp tục thực hiện Ðề án 112, Ban Ðiều hành Ðề án 112 hoàn chỉnh báo cáo tổng kết, nghiêm túc kiểm điểm những mặt được, chưa được và phân tích rõ nguyên nhân; đồng thời làm rõ những vấn đề đã nêu trong Báo cáo giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (Báo cáo số 1485/ UBKHCNMT11 ngày 23-3-2007), không tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết bốn năm thực hiện Ðề án 112; Thực hiện kiểm toán, quyết toán tài chính Ðề án 112 theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng tại Công văn số 6258/VPCP-KTTH ngày 30-10-2006.

Có thể bạn quan tâm