Trong một lần đi tìm dấu tích khu mộ táng Ðại Làng của người Châu Mạ mà cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng khẳng định "có một vương quốc Châu Mạ xưa" ở đây, nhà nghiên cứu văn hóa nay đã mất Lâm Tuyền Tĩnh từng đưa tôi về buôn cổ Konhin B’Lao. Ðây là một trong ba buôn làng lâu đời nhất của vùng đất này. Trong men say rượu cần, già làng như lên đồng, kể cho tôi nghe những câu chuyện không đầu không cuối về một B’Lao xưa. Không gian B’Lao trong tiềm thức của già mang một nỗi buồn huyễn hoặc và đẹp bởi những huyền thoại dệt từ khát vọng của cư dân cổ. Nỗi buồn ấy nung chảy cảm xúc người nghe. Tôi ám ảnh bởi huyền tích người Mạ "ăn hết lộc của Giàng" ở miền đất cũ, Giàng bắt phải đi tìm đất mới lập cư. Trong cuộc thiên di ấy, người Mạ buôn Conhin B’Lao đã vượt qua ba cánh rừng, lội qua ba con sông để đến nơi có ba con nước giao nhau, có đồi ma, có con cọp trắng, nơi chưa ai dám phát rẫy bao giờ. Nhưng nơi ấy có con sông Ðạ Bình không bao giờ cạn nước, có ngọn núi S’Pung chẳng bao giờ hết cây. Nơi ấy là đất lành, là Bảo Lộc ngày nay. Anh Lâm Tuyền Tĩnh chỉ tay mấy vòng như vẽ địa đồ cho tôi hiểu: "Buôn Konhin B’Lao sau này thành tên làng đầu tiên của người Kinh ở vùng Bảo Lộc khi họ lên lập cư từ đầu thế kỷ. Buôn Konhin S’re Rơlong nay thành đất của mấy phường. Buôn Konhin Ðạ giờ là phường B’Lao...". Có một điều, sau ngày anh Lâm Tuyền Tĩnh mất thì trên vùng đất đó nay đã hình thành khu công nghiệp lớn nhất tỉnh Lâm Ðồng, khu công nghiệp Lộc Sơn. Thêm nữa, ngành dâu tằm tơ từng đưa Bảo Lộc lên địa vị "thủ đô dâu tằm của cả nước" thì nay đã hết thời hoàng kim, cho nên những nông trường sản xuất dâu tằm có tên gọi "Konhin" nay cũng đã giải thể...
Ký ức cao nguyên cứ lùi dần, lùi dần vào những câu chuyện kể ngày càng hiếm hoi trong những đêm dài buôn cũ. Những tư liệu lịch sử, những hiện vật khảo cổ cũng về với bảo tàng. Người mới đến chỉ mơ hồ về quá khứ vùng đất này khi bất chợt nghe ai đó nhắc tên một địa danh. Vùng sơn nguyên với bề dày văn hóa mang đậm bản sắc xứ sở, với những trang bi tráng qua bao mùa chinh chiến trong lịch sử đã thay da đổi thịt. Các buôn làng cổ di dời đến nhiều nơi bởi những cuộc chiến tranh, những lần đổi thay quy hoạch. Khắp nơi bây giờ là phố xá, là cơ sở thương mại, là đường rộng, nhà máy lớn, là vườn cà-phê, vườn chè xanh ngát. Thành phố Bảo Lộc đang mang một tâm thế mới, một tầm vóc mới. Nhìn từ ngọn đồi cao trên đèo, Bảo Lộc đẹp như tranh giữa mầu xanh biếc của cây cối tốt tươi và khói sương đặc thù sơn cước. Trong dòng cảm xúc đó, tôi không muốn nhắc tới những quy hoạch, những hoạch định phát triển, những con số thể hiện thành tựu, những việc đã làm, đang làm, những khó khăn, vấn nạn trên đường phát triển... mà các đồng chí lãnh đạo TP Bảo Lộc cung cấp. Tôi chỉ muốn chấm phá những nét thú vị đặc trưng, mang hồn phố cao nguyên trong đó. Mà nét đặc trưng nhất của xứ sở này có lẽ là miền đất hứa của cây chè. Quả thật, nếu ai từng đến đây đều phải thốt lên, Bảo Lộc đúng là đô thị chè...
Mỗi lần từ đồng bằng trở về Ðà Lạt, khi xe leo qua đèo Bảo Lộc là trong tôi có một tâm trạng khác lạ. Cảm giác ấy có được khi ngắm nhìn những nương chè tiếp nối nhau trải dài, xanh ngút mắt. Những lối chè thẳng hàng trên những đồi tiếp đồi như muôn ngàn thiếu nữ rẽ đường ngôi cho mái tóc xuân thì. Không gian khoáng đạt, lãng mạn và tràn đầy sức sống. Tự nhiên, lòng cứ miên man về những biến dịch qua tháng qua năm của vùng đất ba-dan này, về thân phận những nông phu và cả nghiệp làm chè của những ông chủ đồn điền, các danh trà qua nhiều thế hệ. Ở phía nam, cứ nói đến chè là người ta nhắc ngay tới vùng đất cao nguyên Bảo Lộc. Không nhắc sao được khi một thế kỷ qua cây chè cùng với người dân nơi đây chia sẻ chung số phận. Ở xứ sở này, cây chè lặng lẽ với thời gian, len vào cuộc sống của mỗi con người, của mỗi gia đình, từng góc vườn, ngõ phố. Người trồng chè, chế biến trà Bảo Lộc đã bao lần lên hương và cũng bao phen khốn đốn với nghề...
Từ vùng chè Cầu Ðất ở Ðà Lạt trên độ cao 1.000 m so mực nước biển, theo nhu cầu khai thác đất đai và nhân công bản xứ của giới chủ người Pháp mà cây chè lan dài xuống vùng Di Linh rồi Bảo Lộc theo lộ trình mới mở của con đường từ Ðà Lạt đi Sài Gòn những năm 30 của thế kỷ 20. Chè bắt đầu quen đất B’Lao với các đồn điền của các ông chủ đến từ phương Tây, như đồn điền Felit B’Lao, B’Lao Sierré... rồi sau đó là sự ra đời của các trang trại, các rẫy chè, vườn chè hộ gia đình. Từ đó, ở vùng đất này đã xuất hiện đông đảo một tầng lớp cư dân chuyên sống bằng nghề canh tác hoặc chế biến trà hương. Một thế giới riêng của những người làm trà trên đất ba-dan đã khai mở từ gần một thế kỷ trước.
Ngay từ những ngày đầu dựng nghiệp trên quê hương mình, những người trồng trà ở vùng đất này đã chọn ngay địa danh B’Lao để đặt tên cho sản phẩm của họ. Nhờ tiếng tăm đã được khẳng định của "thương hiệu B’Lao" mà các danh trà sau này, ngoài tên gọi cơ sở sản xuất đều dùng thêm chữ "trà B’Lao" trên bao bì sản phẩm, cho dù danh trà của họ có nổi tiếng đến mấy. Ðó có thể là danh trà Quốc Thái, Ðỗ Hữu, Trâm Anh, hay Rồng Vàng, Thiên Hương, Thiên Thành, Ngọc Trang... "Nếu không ghi chữ B’Lao vào bao bì thì sản phẩm như mất đi phần bản sắc quan trọng nhất và rất khó tiêu thụ". Ông chủ đời thứ ba của danh trà Thiên Hương đã khẳng định với tôi như thế. Ðiều đó minh chứng thêm cho sự hòa quyện máu thịt giữa con người, xứ sở và sản phẩm ra đời trên miền đất ấy. Ðồng thời, một lý do quan trọng khác là trà B’Lao mang dấu ấn đặc trưng riêng trong phong vị đã từng chinh phục thói quen thưởng trà của người "Ðàng Trong"...
Nghề trồng và chế biến trà ở cao nguyên B’Lao đã thành nghiệp cha truyền con nối. Những ông chủ thế hệ đầu tiên của các danh trà nổi tiếng trên xứ sở này hầu như đã về với đất. Vẫn là những tên gọi cũ nhưng những người kế nghiệp đã sang đến đời thứ ba, thứ tư. Lão bà Ðỗ Hữu, người phụ nữ từng cùng người chồng quá cố của mình lập nên một trong những thương hiệu chè hương nổi tiếng ở Bảo Lộc, trầm giọng nói với tôi: "Gần đây, bà nghe mấy đứa cháu nói rằng, ở ngoài bắc có người đã làm bẩn chè bằng cách này, cách khác. Buồn thật!... Họ làm thế là xấu hình ảnh nghề trà và xúc phạm đến cây chè! Còn những người trồng và chế biến trà gia truyền ở xứ B’Lao này, coi nghiệp làm trà là đạo!...".
Bảo Lộc là đất của cây chè và nghề chế biến trà. Ở Bảo Lộc, hơn chục năm trở lại đây xuất hiện rất nhiều doanh nhân trong và ngoài nước tìm đến để làm nghề này. Họ là những ông chủ từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v., đến đầu tư thuê đất đai, nhân công trồng và chế biến các loại trà cao cấp. Gần 1.500 cơ sở sản xuất chế biến trà lớn nhỏ là con số thống kê ở "đô thị trà" Bảo Lộc. Trà B’Lao không chỉ còn là sản phẩm tiêu thụ trong nước mà đã tỏa hương ở nhiều thị trường trên thế giới. Tuy nhiên, người dân địa phương và khách thưởng thức trà nhiều miền khi nhắc đến trà B’Lao thì trong tâm tưởng của họ bao giờ cũng hiện lên hình ảnh những trang trại trà, xưởng trà, phố trà danh tiếng xuất hiện từ mấy mươi năm trước. Ở Bảo Lộc, tên gọi của những đồn điền từ thuở nước nhà còn dưới ách đô hộ của ngoại bang bây giờ vẫn là những địa danh không đổi, như nhắc nhở về một thời nô dịch. Trên mỗi tấc đất ba-dan vẫn như còn in dấu bàn chân nặng nề của những người nông phu Kinh, Thượng thuở xưa phơi nắng, phơi sương, oằn lưng vì roi đòn, cõng cái đói nghèo truyền kiếp của kẻ nô lệ để cho bọn thực dân bóc lột, vơ vét...
Thời gian trôi bất tận. Từ cuộc thiên di của những cư dân Châu Mạ cổ xưa, đất B’Lao khởi lập theo ý Giàng. Hôm nay, thành phố trẻ Bảo Lộc đã hiện lên những đường nét hiện đại và năng động. Về Bảo Lộc, ngồi trong chiều in tím sẫm bóng núi S’Pung, chợt hoài niệm về một không gian cao nguyên hoang dã B’Lao trong miền xa ký ức...