Một cuốn sách mỏng - 227 trang, mang cái tên đơn giản China Town - Phố Tàu, với tên tác giả ngắn gọn: Thuận. Phần giới thiệu tác giả ở trang bìa cũng ngắn gọn như vậy: “Thuận. Sinh 1967. Tốt nghiệp ĐH Sư phạm Ngoại ngữ Pyatigosk (Nga), cao học tại đại học Paris 7 và đại học Sorbonne. Tác giả tiểu thuyết Made in Việt Nam và một số truyện ngắn, tiểu luận. Hiện sống tại Pháp.
Cuốn tiểu thuyết ấy (NXB Đà Nẵng, 2005) đang bắt đầu được tìm đọc. Chúng tôi cũng đã tìm gặp Thuận, nhân dịp chị về Việt Nam để cho ra mắt cuốn sách của chị. Thuận mặc chiếc áo khoác may từ loại vải Trung Quốc chuyên làm vỏ chăn “con công" những năm xưa từng là mơ ước của nhiều cặp vợ chồng mới cưới, chiếc áo khoác y chang bức tranh bìa Phố Tàu mà chồng Thuận - họa sĩ Trần Trọng Vũ đã chủ tâm vẽ cho cuốn sách đầu tiên của vợ in ở Việt Nam. Không thận trọng, cũng không xã giao, Thuận trò chuyện với chúng tôi:
* Tại sao chị chỉ lấy mỗi một chữ Thuận để làm bút danh?
- Tôi từng viết một số truyện ngắn cách đây 10 năm, lấy bút danh Thuận Ánh - tên thật. Sau này tôi muốn người ta quên những gì mình đã viết trước đó, nên từ Made in Việt Nam (một tiểu thuyết tôi viết bằng tiếng Việt, in ở Pháp) tôi lấy tên là Thuận, đơn giản là một cái tên khác thôi mà.
* Đọc Phố Tàu có cảm giác từ ngữ của chị rất thuần Việt và đơn giản, nhưng câu văn thì ngắt rất nhanh, mạnh và lặp đi lặp lại. Đấy là chủ ý của chị để tạo ra phong cách Thuận?
- Văn chương là nghệ thuật của chữ nghĩa nên chữ nghĩa là điều tôi chú trọng nhất. Cái mà tôi tìm kiếm đầu tiên là sự chính xác dễ hiểu. Tôi thích danh từ và động từ, không thích các tính từ và mỹ từ. Trong tiểu thuyết của tôi, nhịp điệu cũng cực kỳ quan trọng, tác phẩm văn học không thể là những câu rời đứng cạnh nhau. Tôi chủ ý viết những câu ngắn, không xuống hàng. Những câu ngắn lặp lại nhau, như gối lên nhau. Liên tục tạo thành một nhịp điệu. Phố Tàu chỉ có một nhịp điệu, nhưng có ba quãng khác nhau, cắt ngang bởi hai lần xuất hiện của một nhân vật không được giải thích lý do xuất hiện cũng như quan hệ với nhân vật chính và hệ thống nhân vật của tiểu thuyết - nhân vật I’m yellow . Tôi để cho người đọc tự do trôi theo dòng hồi tưởng miên man của nhân vật và muốn họ cảm giác được cái hùng hục của tôi khi viết.
* Trong tiểu thuyết, chị đã cố tình không cho nhân vật của mình đi đến phố Tàu - Chợ Lớn, nơi mà theo cô ta là khởi nguồn của mọi bi kịch trong cuộc đời cô ta, nơi cô ta đã mất tình yêu và có thể sẽ mất nốt cả linh hồn của đứa con trai. Chị cố ý như vậy hay vì chị chưa từng đến đó để có thể viết về nó, như chị đã viết về Phố Tàu ở Paris?
- Tôi đến phố Tàu - Chợ Lớn nhiều lần: Cũng đã đến phố Tàu ở nhiều thành phố Mỹ. Thực ra, mọi phố Tàu trên thế giới đều mang một tinh thần như nhau - mà nói chính xác thì phố Tàu ở Paris ít chất Tàu hơn cả. Nhưng vấn đề không phải ở đó, mà với tôi, phố Tàu chỉ là một cái cớ, nó là nỗi ám ảnh thì đúng hơn là một thực thể tồn tại - trong tiểu thuyết. Toàn bộ những gì diễn ra trong các phố Tàu ở cả Paris lẫn Chợ Lớn đều là do nhân vật chính tưởng tượng ra trong dòng hồi ức triền miên và có vẻ lộn xộn của cô ta.
* Chị có nhớ được nguyên văn câu đầu và câu cuối của tiểu thuyết không?
- Nhớ chứ. "Đồng hồ đeo tay chỉ số 10" và "Đồng hồ đeo tay chỉ số 12”.
* Có nghĩa là...
- Câu chuyện của tiểu thuyết chỉ gói gọn trong hai tiếng.
* Khi viết, chị hướng đến đối tượng độc giả cụ thể nào không?
- Tôi không hình dung ra chân dung cụ thể bạn đọc của mình, già trẻ, nam nữ, làm nghề gì, thành phần xã hội nào. Nhưng tôi chắc chắn là mình luôn hướng đến độc giả người Việt ở Việt Nam, những người nói tiếng Việt và đọc thông viết thạo chữ Việt.
Chính vì thế mà tôi muốn bằng mọi cách để in được sách của mình ở Việt Nam.
* Nghề nghiệp của chị (giảng viên ngôn ngữ) có ảnh hưởng gì đến thói quen viết lách, hay nói văn chương là phong cách viết của chị không?
- Có chứ, tôi đã nói rồi mà, tôi thích sự đơn giản, rõ ràng, chính xác trong từng câu chữ.
* Chị thấy đời sống văn học ở Việt Nam khác với những nơi chị từng sống (Nga, Pháp...) như thế nào?
- Ở nước ngoài, nhà văn muốn được xã hội tiếp nhận phải có bề dày sáng tác nhiều hơn, ít nhất bốn - năm tác phẩm (tiểu thuyết) đã in ra mới được công nhận. Còn ở Việt Nam, có thể chỉ hai - ba truyện ngắn đã được chào đón nồng nhiệt – như tôi đang được đón tiếp đây (cười). Nhưng về vật chất thì ở đâu cũng vậy thôi, một tác phẩm nổi tiếng ở Pháp, in ra, nhà văn được 5.000 FF, tương đương 750 euro, đủ để trả tiền nhà trong một tháng và ông ta đã phải lao động trong hai năm (!). Nỗi buồn vì văn học không phải là hàng bán chạy là nỗi buồn chung của nhân loại rồi mà.
| Chinatown - tên gọi những khu phố hay những cụm khối phố tập trung Hoa kiều hoặc phần lớn cư dân là Hoa kiều. Phố Tàu - Chinatown có ở hầu hết các thành phố lớn của hầu hết các nước trên thế giới. Ở ta, cụ thể ở Sài Gòn, có một Chinatown, trước kia thuộc loại lớn nhất châu Á, là Chợ Lớn, nhưng chỉ gần đây người ta mới làm quen với từ đó. Chinatown hồ như đã trở thành biểu tượng của tha hương. Chinatown của Thuận, theo những gì ăngten tôi bắt sóng được, là một cuốn tiểu thuyết về thân phận tha hương theo nghĩa rộng nhất của từ này. Thời gian của câu chuyện được kể lại bắt đầu từ lúc "đồng hồ đeo tay chỉ số mười" và kết thúc khi "đồng hồ đeo tay chỉ số mười hai". Giữa khoảng đó, suốt hai tiếng đồng hồ bị kẹt cùng đứa còn trai 12 tuổi tại một ga xe điện ngầm ngoại ô Paris vì một túi du lịch vô chủ được phát hiện quanh đó khiến người ta nghĩ "âm mưu đánh bom một cái ga hiu hắt như thế này chứa một âm mưu khác nguy hiểm hơn nhiều" người kể chuyện, một phụ nữ Việt Nam tha hương, một Việt kiều bất đắc dĩ mấp mé tứ tuần mặc sức thả mình vào những hồi ức và những suy nghĩ miên man về thời đi học, về những ngang trái của thế sự và hoàn cảnh khiến cuộc tình và hôn nhân của mình đâm dở dang bất hạnh, về đứa con trai chỉ mơ đến khi 18 tuổi sẽ được mang ba quốc tịch Việt, Pháp và Trung Hoa (mà vẫn vô tổ quốc!), về trăm thứ chuyện khác... Ngổn ngang và tung tóe như những mảnh của một trò chơi ghép hình, không chương hồi, liền một mạch suốt hơn 200 trang sách, bề bộn những suy ngẫm, hình tượng, chi tiết nhấn đi nhấn lại bất tận đến thành ám ảnh, như lưỡi dao cùn nhay mãi không đứt, như cái đĩa hát cũ bị vập rãnh, cuốn sách đậm đặc một thứ humour xót xa và không thiếu những yếu tố mà giờ đây người ta gọi là hậu hiện đại này nhiều lúc làm tôi như nhập đồng. Và luôn luôn nghe thấy một bè ẩn, đúng hơn, một undertone day dứt. Nó giống như âm hưởng của câu hỏi đau đớn mà Paul Gauguin dùng đặt tên cho một kiệt tác cuối đời của ông: D"où venons-nous? Que sommes-nous? Où allons-nous? (Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta là cái gì? Chúng ta đi đến đâu?)... DƯƠNG TƯỜNG |