Thương tiếc Giáo sư Hà Văn Cầu

Giáo sư Hà Văn Cầu là một gương mặt tiêu biểu trong đội ngũ nghệ sĩ sân khấu vừa có tâm, vừa có tài, dấn thân hết mình cho sự nghiệp phục hồi, chấn hưng và phát huy tinh hoa nghệ thuật truyền thống dân tộc, nhất là trong lĩnh vực chèo. Giáo sư Hà Văn Cầu, sinh năm 1927, tại một làng quê thuần nông thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Đây là vùng đất nức tiếng cả nước với tiếng hát chèo và những mảnh trò rối nước làng Khuốc.

Giáo sư Hà Văn Cầu (người đứng bên phải) trong bộ phim truyền hình Số Đỏ dựa theo tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Giáo sư Hà Văn Cầu (người đứng bên phải) trong bộ phim truyền hình Số Đỏ dựa theo tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Chắc chắn hai loại hình trình diễn dân gian này có ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới tâm hồn và có tác dụng mạnh mẽ đến hướng nghiệp, chọn nghề của Giáo sư (GS) Hà Văn Cầu. Sau đó, được gia đình gửi về Hà Nội sống cảnh trọ học tại Trường trung học Thăng Long, may mắn được là học trò của các trí thức tên tuổi, đồng thời là những nhà hoạt động bí mật như Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp trực tiếp giảng dạy, mở ra cho chàng thanh niên gốc gác nông thôn chân trời học vấn và lý tưởng sống chân chính. Điều này cắt nghĩa nguyên nhân khi Cách mạng Tháng Tám diễn ra và liền sau đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập non trẻ, Hà Văn Cầu hăng hái tham gia rồi trở thành một cán bộ hoạt động văn hóa - văn nghệ tại Liên khu III. Suốt chín năm kháng chiến, Hà Văn Cầu vừa viết văn, làm thơ và diễn kịch, diễn chèo, vừa nỗ lực học hỏi hiểu biết về vốn nghề từ các đồng nghiệp già dặn cho đến những nghệ nhân vô danh tản mác đây đó.

Hòa bình lập lại trên miền bắc cuối năm 1954, được tổ chức phân công công tác tại ngành văn hóa - thông tin ở Hà Nội, Hà Văn Cầu vẫn đau đáu say mê với sân khấu chèo. Tụ họp với những bạn bè đồng chí hướng như nhà thơ, đạo diễn chèo Trần Huyền Trân, nhà viết kịch Lộng Chương, nhà thơ, tác giả sân khấu Lưu Quang Thuận, họa sĩ sân khấu Nguyễn Đình Hàm, chọn tư gia của ông Lộng Chương làm trụ sở, ông và các nghệ sĩ đã lập ra nhóm những người yêu sân khấu chèo. Với lịch sinh hoạt rất nghiêm túc vào sáng cuối tuần, tất cả những thành viên của nhóm đều có mặt đúng giờ, theo phân công cụ thể cho từng người đóng vai trò đề dẫn, nêu vấn đề mọi người trao đổi, luận bàn về các phương diện của chèo, từ biên kịch đến biểu diễn, âm nhạc, phục trang vai diễn, v.v. Đó có thể coi như là sự sơ khai ngôi trường sân khấu đầu tiên ở Hà Nội vào giữa những năm 50 của thế kỷ 20.

Để có thực tế đi song song với tri thức lý luận, nhóm còn có sáng kiến thành lập Đội chèo Cổ phong, chọn và tập hợp những bạn trẻ có năng khiếu ca diễn và say mê chèo, rồi mời một số nghệ nhân chèo có thương hiệu ở các chiếu chèo quanh Hà Nội về rèn cặp chuyên môn cho các diễn viên tương lai trong các tích chèo cổ kinh điển như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Trương Viên, Súy Vân giả dại… Càng đi sâu vào nghề chèo, thâm tâm Hà Văn Cầu càng vỡ lẽ ra rằng sân khấu truyền thống dân tộc là bộ phận không thể tách rời của cả nền văn hóa dân tộc. Để có thể tiếp cận vào chiều sâu của văn hóa dân tộc, không thể không trang bị sự thấu hiểu về tư tưởng phương Đông, tín ngưỡng dân tộc, phong tục dân tộc. Tự soát xét lại mình, Hà Văn Cầu thấy mình chịu ảnh hưởng nặng kiến thức của nhà trường Pháp Việt trước cách mạng, nặng về trang bị học vấn văn hóa, văn học phương Tây, còn tri thức về văn hóa phương Đông lại ít được trang bị và là một lỗ hổng lớn. Do vậy, Hà Văn Cầu quyết tâm bằng mọi giá phải gấp rút bổ sung gia tăng phần kiến thức về phương diện còn rất mỏng này.

Xuất phát từ đó mà đang là cán bộ nghiên cứu chèo của Vụ Nghệ thuật, khi nghe tin Ủy ban Khoa học xã hội nhân văn, nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội nhân văn, tổ chức khóa học đại học chuyên ngành Hán học tại Viện Văn học cuối những năm 60 của thế kỷ 20, Hà Văn Cầu tự nguyện xin dự tuyển và thi đỗ, được Bộ Văn hóa lúc đó ra quyết định cử đi học. Sau hơn ba năm rùi mài kinh sử, dưới sự dẫn dắt trực tiếp của GS Cao Xuân Huy nổi tiếng thực học như một nhà triết học hiếm có của cả nước, Hà Văn Cầu tốt nghiệp xuất sắc, trở về cơ quan cũ, tiếp tục với hành trình tìm hiểu nghiên cứu về chèo và rộng ra là cả nền sân khấu truyền thống Việt Nam trên một tầm nhìn và một trình độ chuyên môn đã được nâng cao thêm một bước.

Nhờ sự kết hợp vốn tri thức Tây học với Đông phương học (Hán - Nôm học) mà từ đây sự nghiệp của Hà Văn Cầu chuyển sang một giai đoạn mới, đánh dấu bằng một loạt các công trình nghiên cứu chuyên sâu về chèo và về một số loại hình khác của sân khấu Việt Nam cũng như mở rộng ra cả một số phương diện văn hóa học như lễ hội, tín ngưỡng, phong tục dân gian… Các công trình lần lượt được xuất bản và gây tiếng vang trong dư luận. Năm 2001, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học - nghệ thuật.

Dù nghiên cứu, viết về nhiều lĩnh vực, nhưng có thể nói những công trình của ông có giá trị tổng kết, khám phá mang tính chuyên sâu cao là những chuyên luận dưới dạng sách được công bố và tái bản tập trung vào chèo và sân khấu. Đó là các công trình như Quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo (xuất bản năm 1964, Nhà xuất bản Sân khấu tái bản năm 2003 có sửa chữa, bổ sung với tên gọi Sơ thảo lịch sử chèo);Tìm hiểu phương pháp viết chèo (năm 1969), Hề chèo chọn lọc (tổng luận nghiên cứu và tuyển chọn trích đoạn tiêu biểu (năm 1972)), Kịch bản chèo cổ, sưu tầm nhân dị văn bản (năm 1979), Mấy vấn đề kịch bản chèo (năm 1979), Phong cách và thi pháp trong nghệ thuật cải lương (năm 1994)...

Có mặt trên các diễn đàn, hội nghị khoa học quốc tế về sân khấu, GS Hà Văn Cầu với các tham luận giàu suy nghĩ và kiến giải đã được giới nghiên cứu sân khấu thế giới đánh giá cao như tại Béc-lin (Đức) với những so sánh đáng chú ý về sự giống và khác giữa sân khấu tự sự của B.Brếch với sân khấu truyền thống Việt Nam, rồi sự gần gũi và khác nhau giữa hý khúc Trung Quốc với kịch hát truyền thống Việt Nam… Là nhà nghiên cứu có thành tựu, ông hiểu rằng muốn có cách tiếp cận vào cơ cấu bên trong một nghệ thuật tổng hợp cao như kịch hát truyền thống Việt Nam thì cần phải thử nghiệm cả trong sáng tác như một sự gắn bó hữu cơ giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa tư duy hình tượng với tư duy lô-gích. Vì vậy, song song với nghiên cứu sân khấu ông còn say mê viết kịch trên tinh thần thử nghiệm, tìm tòi đổi mới.

Ông là người cộng tác với Vũ Đình Phòng (học sân khấu ở Liên Xô về) bắt tay vào viết kịch về cuộc đời lãnh tụ Hồ Chí Minh dưới hình thức kịch tư liệu ở vở Người công dân số 1, được dàn dựng trên sân khấu, như là vở diễn bề thế chững chạc đầu tiên trên sâu khấu Việt Nam hiện đại viết và diễn về hình tượng Bác Hồ vĩ đại. Cũng Hà Văn Cầu thử nghiệm viết kịch bản kịch nói học hỏi theo phong cách tự sự - ước lệ của kịch hát dân tộc trong vở Sang Sông gây dư luận tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp năm 1970. Ông cũng tâm huyết và dày công với việc đưa đề tài lịch sử với chất sử thi hoành tráng, nghiêm trang vào chèo ở loạt vở chèo về Tô Hiến Thành hoặc vở chèo tái hiện lại phiên tòa công minh xử án tội ác lộng quyền của Đặng Mậu Lân - em trai nguyên phi Đặng Thị Huệ. Ngoài ra Hà Văn Cầu còn dụng công bắt tay vào việc chuyển thể truyện nôm khuyết danh vào chèo với vở Tống Trân - Cúc Hoa.

Với 90 tuổi đời và 65 tuổi nghề và trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ trong cương vị một văn nghệ sĩ kiểu mới, có tri thức thực học, có tác phẩm với những tìm tòi suy nghĩ đáng trân trọng, Hà Văn Cầu thật sự trở thành một trong những cây đại thụ của ngành chèo. Sự ra đi của ông vào ngày 26-3 vừa qua là một tổn thất khó bù đắp của giới sân khấu Việt Nam. Ngoài sự nghiệp nghiên cứu và sáng tác, Hà Văn Cầu còn là một nhà sư phạm nghệ thuật với nhiều buổi giảng về sân khấu khiến người nghe nhớ mãi. Ông còn có thời gian nắm trọng trách là Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam, Cố vấn nghệ thuật cho Nhà hát Chèo Thái Bình… Ông là một tấm gương lao động miệt mài, nghiêm túc và có những ý kiến phát hiện, thật sự là tấm gương đáng noi theo của giới nghệ sĩ và giới nghiên cứu sân khấu nước ta.

Có thể bạn quan tâm