Sông núi nước Nam

Rước lễ trong ngày giỗ Tổ, Đền Hùng (Phú Thọ).
Rước lễ trong ngày giỗ Tổ, Đền Hùng (Phú Thọ).

Tổ quốc - Ðất nước - Non sông - Quê hương... là những danh từ thiêng liêng, cao quý nhất trong đời sống con người. “Sông núi nước Nam vua Nam ở...” Danh từ sông - núi đã hóa thiêng bởi hồn thiêng con người và hồn thiêng sông - núi cũng đã thiêng hóa trở lại, tôn vinh tạo thế trụ sừng sững uy linh cho hồn người.

Sông là nước, núi là đá. Nếu ta chỉ nhìn chúng ở dạng vật thể, vật chất một cách đơn lẻ thì thấy chúng thật giản dị bình thường, thậm chí tầm thường như bao thứ vật thể vô tri, vô tâm, vô linh khác ở trên đời. Hãy tưởng tượng một viên đá lăn lóc ở ven đường, một hòn núi ở  một nơi nào đó vô tình bước lữ hành ta gặp; và nhìn xem một vũng nước, một con sông ở một nơi xa lơ xa lắc xứ quê nào...

Có gì thân thuộc lay động tâm can con người đâu nhỉ? Nhưng lạ lùng khi từ sông và núi kia được đặt bên nhau trong nghĩa Tổ quốc - Quê hương thì xiết bao lay động lòng ta. Mắt ta bỗng rưng dòng lệ vui sướng hay hờn căm lo nghĩ khi núi sông có niềm biến đổi. Con người trước núi sông bao đời trong tình cảm hiến dâng. Lao động - dựng xây - hy sinh - dâng hiến. Ðã bao sức lực, mồ hôi của con người đổ xuống cho cuộc xây dựng sông núi. Và đã bao dòng lệ, dòng máu thắm tươi đổ xuống vì sự trường cửu yên bình của non sông gấm vóc.

Xét về mặt ngữ nghĩa, tôi thường hay tự hỏi, sao người xưa đã lấy chữ sông - nước, núi - đá đặt nghĩa tượng hình cho xứ sở riêng? Gọi là đất - nước thì ý nghĩa thiết thực hơn. Bởi đất gắn chặt với đời sống muôn loài trong việc quần cư, cộng sinh, mùa vụ. Còn núi ý nghĩa là sao? Có một quan niệm giải thích chữ núi rất gần với ý nghĩa chữ đất, là ở sách Dịch. Trong dịch có quái cấn: cấn vi sơn (núi), cấn - sơn thuộc hành thổ - đất. Và cấn còn có nghĩa là đậu lại, ngưng chỉ lại. Với sự tương liên chữ nghĩa vậy mà người xưa đã dùng cả chữ núi để định thế núi - sông chăng? Nhưng thôi, hãy xem đây chỉ là sự khơi gợi, luận bàn. Ta cứ xét chữ núi một cách độc lập trong thế tượng hình của nó sừng sững, uy nghi trụ giữa gầm trời kia.

Trên mặt đất này, trong thế giới vật thể không gì to lớn, kỳ vĩ hơn núi. Những dải núi điệp trùng, những ngọn núi cao ngất đã hàng đời và sẽ mãi mãi còn ẩn giấu bí mật, thách thức ý chí con người. Núi chứa vô vàn bí ẩn mà núi cứ như không. Núi lớn lao, bền vững mà núi cứ như không. Cái tư thế "vô vi mà đại định" (thơ Thi Hoàng) núi sừng sững giữa đời kia chẳng phải đáng tôn vinh, chiêm ngưỡng lắm sao? Chẳng đáng nêu làm biểu tượng của muôn đời, cho con người ta theo đấy mà nuôi ý chí, mà nương tình, mà định an tính lắm sao?

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Là người Việt Nam hẳn không mấy ai không biết câu ca dao này. Tình cảm tổ tiên đã mượn hình sông thế núi và hát ru, truyền dạy đạo lý ở đời. Thái Sơn thì to lớn, suối nguồn thì vô tận vô cùng. Lại gặp một câu nói, cách xác định tâm thế của người xưa. Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy. Nghĩa là, người có đức nhân thì hợp tượng núi, người có đức trí thì hợp với tượng nước. Núi thì tĩnh lặng, vững vàng. Nước thì lưu động, thấm thía vô cùng. Nước khi mạnh mẽ thì hóa ghềnh thác, hợp tụ lại thì thành biển cả mênh mông. Ấy vậy mà lại không gì tế vi nhuần thấm hơn nước. Nước ẩn tàng vào cơ thể sống của mọi dạng vật chất ở chốn hoàn cầu này. Trong lòng núi đồi, trong ruột cây sắc lá, trên làn mây bay, tầng khí quyển, nơi tận cùng âm ti địa ngục thẳm sâu... không đâu nước không có mặt mà nói lời quyết định sự sinh tồn. Chao ôi, với bao lẽ thiêng liêng, kỳ diệu vậy khiến cho ông cha ta đã mượn hình, cậy lượng, sở tình, dụng tính của núi và sông để lập thế an cư, định nghĩa trần gian này!

Ở quê hương, xứ sở ta sự gắn bó thiết thân máu thịt tình sông - núi với con người là vô cùng sâu nặng. Có ở nơi nào trên trái đất này đã ngàn đời lấy thế núi - sông làm lũy thành phên dậu mà giữ gìn lấy đất đai Tổ quốc. Kia ải Chi Lăng, đèo Mã Phục, dải Hoàng Liên, Trường Sơn... từng âm vang chiến thắng thời trận mạc. Bao ngọn núi quê hương dâng tảng ngực trần uy nghiêm, bền gan, kiêu dũng che bom, đỡ đạn, ngăn chặn bão dông. Dựa vào thế núi mà giữ đất. Và núi đã được ông cha ta dùng trong nghĩa núi sông còn là do nghĩa vậy chăng? Và kia bến Bồ Ðề, cửa Hàm Tử, dòng Ðằng Giang, Hồng Hà, Cửu Long... đã bao đời nhuộm huyết do hồng quân giặc.

Lấy núi làm cha, sông làm mẹ. Núi ngăn bước thù, sông trôi máu giặc. Núi che gió bão, sông chở phù sa. Còn ở nơi nào nghĩa

núi - sông gắn bó với con người hơn thế nữa. Hẳn là không ở xứ sở nào nghĩa núi - sông mang một ý nghĩa lớn lao, sâu xa hơn xứ sở Nam Quốc Sơn Hà thiêng liêng này.

Có thể bạn quan tâm