Trước đó, những ai quan tâm đến dự án đưa cải lương xuống phố đều tỏ ra ái ngại khi chứng kiến các nghệ sĩ biểu diễn trên một sân khấu sơ sài, tạm bợ dựng ngay ngã tư Bùi Viện - Đề Thám. Nhìn thoáng qua, có người còn nhầm lẫn đây là chương trình văn nghệ quần chúng chứ không phải là sàn diễn dành cho một bộ môn nghệ thuật tinh túy của dân tộc. Vì tình yêu nghề, vì mong muốn đưa cải lương đến gần hơn với công chúng, cống hiến những chương trình đặc sắc, góp phần quảng bá tinh hoa nghệ thuật dân tộc đến với du khách trong và ngoài nước, các nghệ sĩ đã chấp nhận nhiều thiệt thòi về điều kiện lao động nghệ thuật.
Họ đứng ngồi vạ vật trong các quán giải khát gần đó, loay hoay hóa trang giữa cảnh xô bồ, ồn ã đợi đến lượt lên sân khấu. Và khi chương trình bắt đầu, các nghệ sĩ cũng thiếu “đất” để sáng tạo khi phải chật vật khổ sở với các vũ đạo trên sân khấu có diện tích ngót nghét 10 m2. Chung quanh đó là bầu âm thanh hỗn tạp bởi đủ loại nhạc phát ra từ loa thùng của các quán xá bủa vây. Chưa kể, với đặc điểm của phố đi bộ, người đến người đi lộn xộn, không phù hợp với việc thưởng thức một tác phẩm cải lương với nhiều chương đoạn phong phú. Việc mất tập trung, sự ồn ào từ phía khán giả ít nhiều ảnh hưởng đến cảm xúc, tâm lý diễn viên trên sân khấu. Về phía các nghệ sĩ, trong khi cố gắng dàn dựng các trích đoạn, hoặc vở diễn theo hướng giản lược để phù hợp với không gian phố đi bộ, thì chính điều này lại khiến các chương trình trở nên kém bản sắc, thậm chí trong con mắt của nhiều khán giả, không những chương trình không tôn vinh được nghệ thuật cải lương, mà còn khiến các chương trình biểu diễn ở đây trở nên nhếch nhác, tồi tàn.
Cũng thực hiện dự án đưa các loại hình nghệ thuật truyền thống xuống phố, những thử nghiệm ban đầu tại Hà Nội lại cho các kết quả khả quan. Cụ thể, từ ngày 1-9-2016, phố đi bộ hồ Gươm chính thức đi vào hoạt động. Trong dịp này, nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống như hát chèo, chầu văn, xẩm, dân ca quan họ,... hoặc chương trình biểu diễn các loại nhạc cụ dân tộc như đàn bầu, đàn tranh, sáo,... đã diễn ra tại đây, thu hút sự quan tâm của người dân Thủ đô, cũng như của khá nhiều du khách. Từ đó đến nay ở Hà Nội, sau hơn hai năm triển khai, việc đưa nghệ thuật truyền thống xuống phố tiếp tục phát huy hiệu quả. Âm nhạc truyền thống được cộng đồng đón nhận. Tiêu biểu nhất có thể kể đến là nhóm Xẩm Hà thành với các chương trình biểu diễn miễn phí thường xuyên tại khu vực Tượng đài vua Lê Thái Tổ vào các tối thứ bảy, chủ nhật, đã góp phần tạo nên bản sắc, thương hiệu cho phố đi bộ.
Có thể thấy chủ trương đưa các loại hình nghệ thuật truyền thống đến gần hơn với công chúng, tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng để tạo sức lan tỏa, góp phần quảng bá văn hóa cũng như gây dựng tình yêu, lòng tự hào của người dân, đặc biệt là giới trẻ đối với các tinh hoa văn hóa, nghệ thuật của dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa một chủ trương để đạt được kết quả như kỳ vọng đòi hỏi việc lựa chọn, xây dựng kế hoạch, mục tiêu, chương trình bài bản, và nhất định phải dựa trên những kết quả đánh giá, khảo sát cụ thể từ nhu cầu thực tế của người dân, đặc thù của từng loại hình nghệ thuật. Nếu thực hiện nóng vội, máy móc, chưa chú ý khảo sát thực tế,... sẽ khiến chương trình chẳng những không đạt được hiệu quả mong muốn, mà còn phản tác dụng.