Pháp âm mưu muốn ta tiếp quản một Thủ đô kiệt quệ, hỗn loạn
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết. Hòa bình lập lại ở Đông Dương trên cơ sở Pháp và các nước tham dự Hội nghị Genève cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngừng bắn ở Việt Nam, Pháp rút quân về phía nam; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời, nhân dân Việt Nam sẽ tổng tuyển cử tự do vào tháng 7/1956, để thống nhất đất nước.
Cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của nhân dân ta chống đế quốc Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang. Nhưng do bản chất ngoan cố, bè lũ đế quốc chưa cam tâm chịu hoàn toàn thất bại. Hiệp định Genève ký chưa ráo mực thì đế quốc Pháp cấu kết với đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại việc thực hiện Hiệp định, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Ngày 25/7/1954 Ban Chấp hành Trung ương ra Lời kêu gọi, chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh ái quốc của nhân dân ta đang chuyển sang một giai đoạn mới. Hình thức đấu tranh vũ trang đã đổi ra hình thức đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta và của Đảng ta còn rất nặng nề. Chúng ta phải ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc”.
Thực hiện nhiệm vụ đó, việc tiếp quản các thành thị lớn ở miền bắc mới giải phóng là một công tác rất quan trọng. Đặc biệt việc tiếp quản Hà Nội, giải phóng hoàn toàn Thủ đô có ý nghĩa hết sức trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến cứu nước của nhân dân ta.
Từ chỗ ra sức củng cố Hà Nội, xây dựng Hà Nội thành đầu não chỉ huy chiến tranh, thực dân Pháp được Mỹ giúp đỡ chuyển sang âm mưu phá hoại thành phố về mọi mặt trước khi chuyển giao cho ta. Trước mắt, chúng muốn ta tiếp quản một Thủ đô kiệt quệ, hỗn loạn, làm giảm uy tín của Chính phủ kháng chiến ở trong nước và quốc tế.
Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết 80 ngày của quân đội Pháp. Từ chỗ ra sức củng cố Hà Nội, xây dựng Hà Nội thành đầu não chỉ huy chiến tranh, thực dân Pháp được Mỹ giúp đỡ chuyển sang âm mưu phá hoại thành phố về mọi mặt trước khi chuyển giao cho ta. Mục đích sâu xa của chúng là ngăn trở không cho ta mau chóng xây dựng Thủ đô Hà Nội thành chỗ dựa để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục đất nước, để chúng dễ bề thực hiện những âm mưu, kế hoạch xâm lược mới chống lại nhân dân ta. Trước mắt, chúng muốn ta tiếp quản một Thủ đô kiệt quệ, hỗn loạn, làm giảm uy tín của Chính phủ kháng chiến ở trong nước và quốc tế.
Các nữ chiến sĩ quân y vẫy chào nhân dân trong ngày về giải phóng Thủ đô. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Tuy nhiên, thực dân Pháp đang đứng trước tình hình quân đội viễn chinh suy sụp về tinh thần, ngụy quân ngụy quyền mất chỗ dựa, đang tan rã từng mảng lớn.
Trước tình hình đó, ở Hà Nội, một mặt, thực dân Pháp tìm mọi cách cứu vãn quân đội viễn chính và ngụy quân bằng cách khẩn trương đưa những đơn vị quân đội đã mất sức chiến đấu vào miền nam để củng cố lại; mặt khác, tăng cường quây ráp các khu xóm lao động, các làng ngoại thành hòng bắt lính ngụy bỏ trốn và bắt cả thanh niên vào lính.
Địch cố gắng vực dậy bộ máy ngụy quyền thành phố, làm công cụ để thực hiện các âm mưu phá hoại: di chuyển tài sản máy móc ở các công sở, xí nghiệp và cưỡng ép nhân dân di cư vào nam.
Địch cố gắng vực dậy bộ máy ngụy quyền thành phố, làm công cụ để thực hiện các âm mưu phá hoại: di chuyển tài sản máy móc ở các công sở, xí nghiệp và cưỡng ép nhân dân di cư vào nam. Lúc này, ngụy quyền thành phố hầu như tê liệt. Các cơ quan, công sở chỉ làm việc cầm chừng. Ngụy quyền cơ sở nằm im không dám hoạt động. Các đảng phái phản động bỏ chạy, một số ít rút vào bí mật. Thực dân Pháp phải để cho một số tên tay sai đắc lực của Mỹ nắm giữ các chức vụ quan trọng trong ngụy quyền.
Chiều 27/7/1954, ngụy quyền họp ở Tòa Thị chính, thành lập “Ủy ban di cư”. Ngày 2/8/1954, Ngô Đình Diệm ra Hà Nội thúc đẩy bọn tay chân, đặc biệt là bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo thực hiện kế hoạch tội ác đó.
Chúng đã huy động hàng nghìn nhân viên ngụy quyền làm việc này. Ngày 10/8/1954, đế quốc Mỹ đưa tên đô đốc Xa-bin ra Hà Nội, trực tiếp điều khiển việc cưỡng ép di cư. Mỹ đã cấp cho thực dân Pháp những phương tiện vật chất cần thiết để vận chuyển những người di cư, chuyên chở hồ sơ, tư liệu, máy móc ở các công sở, xí nghiệp, kho tàng xuống Hải Phòng để vào nam.
Cánh quân phía nam, thuộc hai Trung đoàn 88 và 36 của Đại đoàn 308 tiến qua phố Bạch Mai, phố Huế… vào tiếp quản Thủ đô, sáng 10/10/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Để lung lạc tinh thần nhân dân, địch đổ trách nhiệm cho ta chia cắt đất nước, đe dọa chiến tranh trở lại. Chúng không ngớt tuyên truyền xuyên tạc chính sách tiếp quản của ta đối với các tầng lớp nhân dân thành phố, chú trọng nhiều đến công chức, trí thức, học sinh, sinh viên, tư sản... và nhất là đồng bào theo đạo Thiên chúa. Đối với mỗi tầng lớp nhân dân, chúng giở những thủ đoạn khác nhau để gây sức ép.
Chúng dùng bọn “Công đoàn vàng” mua chuộc, bắt ép công nhân và cán bộ kỹ thuật vào nam làm việc cho chúng. Từ tháng 7, Ngân hàng Đông Dương không cho rút tiền; đến tháng 8/1954, lại buộc những người có tiền gửi phải vào Sài Gòn để lĩnh. Tư sản Pháp kiều tìm cách nhượng bán cơ sở sản xuất kinh doanh. Một số tư sản người Hoa, người Việt cũng chuyển vốn vào Sài Gòn. Ngày 20/8/1954, địch ra lệnh đóng cửa các cơ quan công sở. Ngày 22/8/1954, chúng ra lệnh bắt buộc tất cả công chức, nhân viên kỹ thuật, bác sĩ, kỹ sư, nhà buôn lớn phải di cư vào nam.
Địch dồn những đồng bào công giáo nhẹ dạ ở các tỉnh về Hà Nội, tập trung vào các khu Hàng Chiếu, Nhà thờ Lớn, nhà thờ Hàng Bột, Nam Đồng và một số trường học như Xanh Ma-ri (Saint Marie), Pu-gi-ni-ê (Puginier)... Tình cảnh đồng bào thiếu thốn, bệnh tật rất cơ cực.
Địch dồn những đồng bào công giáo nhẹ dạ ở các tỉnh về Hà Nội, tập trung vào các khu Hàng Chiếu, Nhà thờ Lớn, nhà thờ Hàng Bột, Nam Đồng và một số trường học như Xanh Ma-ri (Saint Marie), Pu-gi-ni-ê (Puginier)... Tình cảnh đồng bào thiếu thốn, bệnh tật rất cơ cực.
Địch còn âm mưu đưa cả các tù chính trị vào nam. Ngày 26/7/1954, chúng chuyển số anh chị em tù chính trị ở Nhà Tiền và trại Thanh Liệt xuống Hải Phòng. Đầu tháng 9/1954, lại đưa tiếp một số tù chính trị còn bị giam ở Hỏa Lò, không chịu trao trả cho ta.
Nhằm mục đích phá hoại ta lâu dài về sau, các cơ quan tình báo đế quốc Pháp và Mỹ, lợi dụng lúc tình hình rối ren, cài người và tổ chức của chúng ở lại, tung gián điệp ra vùng tự do hoặc trà trộn vào nhân dân thành phố, bí mật trang bị vũ khí, điện đài và mọi phương tiện cho bọn này hoạt động. Tháng 8/1954, tổ chức gián điệp biệt kích của CIA, núp dưới danh nghĩa phái đoàn SMM dựa vào bọn Đại Việt, đã đặt được cơ sở ở Hà Nội, vạch kế hoạch phá hoại một số cơ quan kinh tế, văn hóa, một số cơ sở giao thông, đặc biệt là nhằm phá hoại nhà máy điện, nhà máy nước, cầu Long Biên, cảng sông Hồng. Ngày 10/9/1954, chúng đã nổ mìn phá chùa Một Cột.
Đánh bại âm mưu thâm độc
Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, chấp hành đường lối chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ Hà Nội chuyển từ lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sang lãnh đạo toàn dân đấu tranh chính trị và kinh tế đòi thực dân Pháp nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Geneve; đấu tranh, bảo vệ thành phố, bảo vệ các xí nghiệp, công sở, chống địch phá hoại, bảo vệ tính mệnh, tài sản của nhân dân, quyền lợi của công nhân viên chức; phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng trong thành phố, phối hợp chặt chẽ lực lượng bên ngoài vào tiếp quản thành phố, giải phóng hoàn toàn Thủ đô khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp.
Tiếp quản thành phố là một cuộc đấu tranh phức tạp trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, đòi hỏi phải có sự phòng bị về quân sự, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa lực lượng kháng chiến ở ngoài vào và lực lượng kháng chiến tại chỗ trong thành phố, phải có sự phối hợp đấu tranh giữa nhân dân Thủ đô với cả nước, tạo nên sức mạnh buộc kẻ thù phải thực hiện đầy đủ các điều khoản đã ký kết, chặn bàn tay phá hoại của chúng. Ta lại chưa có kinh nghiệm quản lý các thành phố lớn. Tiếp thu và quản lý Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự có ảnh hưởng chính trị lớn đến cả nước và trên quốc tế - đối với ta càng có nhiều khó khăn.
Đoàn xe chở các chiến sĩ Đại đoàn 308 tiến qua phố Hàng Đào, sáng 10/10/1954 trong niềm hân hoan chào đón của hàng vạn người dân. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Trước mắt chỉ có 80 ngày để chuẩn bị mọi mặt, tình hình rất khẩn trương. Phong trào quần chúng trong thành phố đang phát triển nhanh và rộng, trong khi lực lượng cán bộ của ta có hạn. Mọi diễn biến mau lẹ từng ngày, từng giờ mà thành phố lại nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, giao thông liên lạc khó khăn. Nhiệm vụ mới đòi hỏi Đảng bộ Hà Nội phải chuyển biến mạnh mẽ cả về tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng đắn, sát sao và kịp thời.
Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung Đảng đã cử các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Xuân Thủy, Tố Hữu trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công tác tiếp quản Thủ đô.
Trước những khó khăn đó, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung Đảng đã cử các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Xuân Thủy, Tố Hữu trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công tác tiếp quản Thủ đô. Cuối tháng 8/1954, Trung ương Đảng đã bổ sung và tăng cường cán bộ cho Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội, thành lập Đảng ủy tiếp quản thành phố. Ngày 29/8/1954, Trung ương đảng ra quyết định bổ sung các đồng chí Trần Danh Tuyên, Vương Thừa Vũ , Lê Quốc Thân, Khuất Duy Tiến, Trần Duy Hưng vào Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội để phối hợp cùng các đồng chí Lê Trung Toản, Trần Vĩ, Trần Sâm, Nguyễn Tài, Quang Nghĩa... hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo công tác tiếp quản Thủ đô.
Ngày 6/9/1954, Trung ương Đảng cử đồng chí Trần Quốc Hoàn làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bí thư Đảng ủy tiếp quản Thủ đô.
Ngày 17/9/1954, theo quyết định của Chính phủ, Ủy ban Quân chính Hà Nội được thành lập do đồng chí Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm Chủ tịch; đồng chí Trần Duy Hưng làm Phó Chủ tịch. Trung ương đã điều động về Hà Nội hàng trăm cán bộ tuyển chọn từ các lớp học tiếp quản của Trung ương ở Việt Bắc và Liên khu III để xây dựng bộ máy tiếp quản thành phố.
Thấu suốt nhiệm vụ hàng đầu trong công tác tiếp quản là vấn đề an dân, Thành ủy đã xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt là phải giữ vững được đời sống bình thường của nhân dân khi ta vào tiếp quản thành phố. Bằng bất kỳ giá nào cũng phải bảo đảm điện, nước, vệ sinh, ổn định đời sống bình thường của mọi tầng lớp nhân dân thành phố, đặc biệt giữ vững dòng điện là một nhiệm vụ quan trọng.
Giữa tháng 8/1954, công nhân ở hãng S.T.A.I mở đầu đấu tranh giữ máy móc, không cho chủ tư bản Pháp mang đi, bọn chủ phải nhượng bộ.
Để giữ vững dòng điện thành phố, Ban cán sự nội thành được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy điện. Mục tiêu đấu tranh là đòi Pháp phải “bảo đảm đủ than dự trữ cho nhà máy”. Có than mới có việc cho công nhân làm, mới có điện cho người dân dùng, mới có ánh sáng để giữ gìn an ninh trật tự, mới có điện để đón mừng Chính phủ về tiếp quản. Khẩu hiệu kinh tế gắn liền với khẩu hiệu chính trị đã tập hợp được đông đảo công nhân trong hàng ngũ đấu tranh.
Từ nhà máy điện, phong trào đấu tranh chống địch phá hoại, di chuyển máy móc, thiết bị nguyên liệu, vật liệu nhanh chóng mở rộng sang nhà máy nước, bưu điện, ga Gia Lâm, Sở Lục lộ, Công ty vệ sinh...
Công nhân đã đấu tranh với nhiều hình thức hết sức phong phú, từ bãi công không thi hành lệnh chủ, làm đơn ký kiến nghị phản đối, cử đại biểu hoặc từng bộ phận, từng phân xưởng kéo lên bàn giấy của chủ chất vấn, yêu sách; đến hình thức đấu tranh toàn diện, đóng máy nghỉ việc tại chỗ, vừa dùng lý lẽ đấu tranh với địch, vừa kiên quyết giữ không cho địch tháo máy, chặn đường không cho địch chở máy đi… và cao hơn là hình thức công nhân có tự vệ bí mật làm nòng cốt tổ chức thay phiên nhau ngày đêm canh gác xí nghiệp để bảo vệ máy móc khi cuộc đấu tranh đi đến bước quyết liệt.
Các đơn vị cơ giới của Đại đoàn 308 tiến về tiếp quản Thủ đô, sáng 10/10/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Thành ủy kịp thời chỉ đạo đẩy mạnh phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong thành phối hợp phong trào đấu tranh của công nhân và cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị của Ủy ban liên hợp đình chiến ở Phù Lỗ, buộc thực dân Pháp phải tôn trọng những điều khoản đã ký kết.
Anh chị em bác sĩ, dược sĩ, y tá, giáo sư, giáo viên, công chức, nhân viên... ở các bệnh viện Bạch Mai, Phủ Doãn, Sở Y Bắc Việt, ở các trường công, tư và đại học, ở các cơ quan công sở của địch đã tìm cách cất giấu hoặc bí mật chuyển ra vùng tự do thuốc men, dụng cụ y tế, tài liệu khoa học, đồ dùng giảng dạy và thí nghiệm, cùng nhiều hồ sơ và phương tiện.
Ở các khu phố, nhân dân viết kiến nghị ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân gửi lên bọn chủ nhà máy điện đòi phải tiếp tế đủ than, gửi lên Ủy ban liên hợp đình chiến tố cáo và phản đối Pháp vi phạm Hiệp định Geneve, cướp bóc, phá phách các cơ quan xí nghiệp. Một số cán bộ kỹ thuật cao cấp, công chức lớp trên và chủ tư bản Pháp có liên hệ với cán bộ ta cũng tỏ thái độ đồng tình với phong trào đấu tranh của công nhân.
Phong trào đấu tranh chống địch âm mưu phá hoại thành phố đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia từ công nhân và nhân dân lao động đến thanh niên, học sinh, sinh viên, công chức, trí thức, công thương gia. Nhân dân nhiều địa phương trong nước (Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV...) đã gửi thư, điện động viên cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của công nhân và nhân dân Thủ đô.
Thực dân Pháp đã dùng một số tên tay chân trong “Công đoàn vàng” đội lốt “cách mạng”, giả danh “kháng chiến” lừa gạt công nhân để phá ta.
Thực dân Pháp đã dùng một số tên tay chân trong “Công đoàn vàng” đội lốt “cách mạng”, giả danh “kháng chiến” lừa gạt công nhân để phá ta. Chúng vận động công nhân đình công, bỏ việc rời bỏ nhà máy để chúng mặc sức phá phách, di chuyển tài sản. Chúng khuyến khích công nhân tự do lấy các dụng cụ, đồ nghề, vật liệu mang đi, hòng mượn chính tay anh chị em phá thêm nhà máy. Chúng xuyên tạc chính sách của Chính phủ ta, tung tin bịa đặt, chia rẽ công nhân để đẩy công nhân kỹ thuật theo Pháp vào nam.
Cảnh giác, tỉnh táo, công nhân Hà Nội đã đoàn kết đấu tranh, vạch mặt phản động của bọn “Công đoàn vàng”. Bị thất bại, địch lại xoay sang dùng vũ lực uy hiếp công nhân. Chúng điều lính lê dương và Bảo chính đoàn đến tháo dỡ máy ở xưởng Bưu điện ngày 8/9/1921, nhà máy đèn Bờ Hồ ngày 12/9/1954 và đêm 8/10/1954. Nhưng trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh của công nhân được đông đảo nhân dân ủng hộ, địch đã không thực hiện được âm mưu của chúng.
Trải qua hơn hai tháng, các tổ chức Đảng và Công đoàn bí mật ở cơ sở đã lãnh đạo công nhân đấu tranh quyết liệt với địch, giành được thắng lợi to lớn. Công nhân nhà máy điện Yên Phụ và nhà máy đèn Bờ Hồ đã buộc địch phải bảo đảm đủ 4.000 tấn than dự trữ đến ngày tiếp quản. Công nhân nhà máy nước đã giữ được nguyên vẹn thiết bị máy móc, bảo đảm cấp nước bình thường cho thành phố. Công nhân Hỏa xa Gia Lâm đã giữ được 3 toa xe nguyên vật liệu; công nhân hỏa xa Hà Nội giữ lại được tất cả 12 đầu máy và toàn bộ các xe.
Ở các nơi khác, công nhân cũng giữ lại được nhiều máy móc, nguyên liệu, nhiều hồ sơ tài liệu; đồng thời vận động, thuyết phục nhiều cán bộ, công nhân kỹ thuật ở Hà Nội, tham gia ổn định sản xuất sau khi ta tiếp quản. Kế hoạch phá hoại một số cơ sở giao thông, điện nước, cầu và cảng, văn hóa của bọn biệt kích do phái đoàn SMM của Mỹ tổ chức đã bị thất bại thảm hại.
Đúng 16 giờ, ngày 9/10/1954, những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng rút hết qua cầu Long Biên, quân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Trong lúc tập trung lãnh đạo đấu tranh chống địch phá hoại, Thành ủy đồng thời chú ý lãnh đạo đấu tranh chống địch cưỡng ép nhân dân di cư. Được giải thích kịp thời, số đông nhân dân đã không mắc mưu thâm độc của địch.
Thanh niên tìm cách trốn ra vùng tự do; giáo viên, học sinh đòi khai giảng năm học mới vào tháng 9/1954, không đi nam; công chức lẩn tránh không đến nhiệm sở; nhà buôn, chủ xí nghiệp cất giấu hàng hóa, máy móc tạm lánh đi nơi khác. Một số trí thức được ta bố trí đưa ra căn cứ, trong đó có các bác sĩ đã có lệnh của địch bắt tập trung.
Một số nhà in và báo hằng ngày đã liên lạc với ta để được tiếp tục hoạt động sau khi ta vào tiếp quản. Một vài chủ tư bản Pháp kiều đã xin phép ta được tiếp tục kinh doanh sau này. Đại bộ phận nhân dân Hà Nội đã ở lại đón chờ ngày Thủ đô giải phóng. Riêng đối với số đồng bào ở các tỉnh bị địch dồn về Hà Nội để di cư, Thành ủy chỉ đạo tổ chức được một số cuộc tuyên truyền, vận động bà con trở về quê cũ. Nhưng do chủ trương chậm, triển khai thiếu tích cực nên kết quả không được bao nhiêu.
Công cuộc tiếp quản Thủ đô đã hoàn thành tốt đẹp do Trung ương Đảng lãnh đạo chặt chẽ; Đảng ủy tiếp quản có kế hoạch chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo; cán bộ, bộ đội làm nhiệm vụ tiếp quản giữ nghiêm kỷ luật. Ta tiếp thu tuyệt đối an toàn và nhanh gọn toàn bộ các vị trí quân sự của địch ở Hà Nội, trong đó sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, các cơ quan quân sự ở Đồn Thủy và trong Thành (Xi-ta-đen) có tầm quan trọng đặc biệt.
Ta cũng đã tiếp thu 129 công sở, công trình lợi ích công cộng, xí nghiệp, bệnh viện, trường học... với Phủ Toàn quyền cũ. Phủ Thủ hiến Bắc Việt (Bắc Bộ phủ cũ), Sở mật thám Liên bang Đông Dương, những cơ quan đầu não thống trị của chính quyền thực dân Pháp và tay sai.
Sinh hoạt của nhân dân vẫn giữ được bình thường không bị gián đoạn. Các ngành lợi ích công cộng như điện, nước, vệ sinh... vẫn hoạt động đều. Các cơ quan y tế, văn hóa, giáo dục vẫn làm việc. Giao thông liên lạc trong thành phố, giữa Hà Nội và các tỉnh được giữ vững và thông suốt. Các cửa hàng, cửa hiệu, các chợ mở như thường lệ. Việc cung cấp lương thực, thực phẩm, chất đốt... và nhiều mặt hàng cần thiết khác cho nhân dân được bảo đảm đầy đủ. Mậu dịch quốc doanh giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống nhân dân. An ninh chính trị, trật tự xã hội được bảo đảm tốt. Uy thế to lớn của cách mạng khiến cho bọn phản động và lưu manh phải nằm im không dám chống phá, gây rối.