Phê duyệt quy hoạch hai thành phố Hải Phòng và Cần Thơ tầm nhìn đến năm 2050

Ngày 2/12, Thủ tướng đã có Quyết định số 1516/QÐ-TTg phê duyệt quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
0:00 / 0:00
0:00
Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền, Hải Phòng. (Ảnh: Hồng Điệp)
Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền, Hải Phòng. (Ảnh: Hồng Điệp)

Ðến năm 2050, Hải Phòng sẽ là thành phố cảng biển lớn trong khu vực và thế giới với ba trụ cột phát triển, gồm dịch vụ cảng biển-logistics; công nghiệp xanh, thông minh, hiện đại và trung tâm du lịch biển quốc tế.

Thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng xanh, bền vững, xây dựng lối sống xanh.

Ðến năm 2030, xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố cảng biển lớn, đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số; là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước; có công nghiệp hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối thuận lợi trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không và đường thủy nội địa,...

Về kinh tế, tỷ trọng đóng góp GRDP của thành phố Hải Phòng vào tổng sản phẩm (GDP) cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 6,8%; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân thời kỳ 2021-2030 tăng khoảng 13,5%/năm. Về cơ cấu kinh tế: ngành công nghiệp chiếm 46,8%; dịch vụ chiếm 43,2%; nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 1%,…

Về phương hướng phát triển, Hải Phòng ưu tiên phát triển ba ngành chủ lực có vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế của thành phố, gồm sản phẩm điện tử-công nghệ thông tin; dịch vụ cảng biển-logistics; thương mại. Phấn đấu ba nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 55-60% giá trị tăng thêm trên địa bàn thành phố vào năm 2030. Ðồng thời, thành phố khuyến khích nhóm ngành kinh tế có nhiều triển vọng như kinh tế số, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ giáo dục-đào tạo nhân lực chất lượng cao, điện gió ngoài khơi,...

Ngành công nghiệp-xây dựng tiếp tục đóng vai trò trụ cột kinh tế của Hải Phòng; công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ít phát thải khí nhà kính; tham gia sâu, toàn diện vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, có thế mạnh như cơ khí chế tạo, cơ khí giao thông, công nghiệp điện tử,... Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới như chíp, bán dẫn, robot; khôi phục một số ngành công nghiệp trước đây vốn là thế mạnh của Hải Phòng, đặc biệt là đóng mới và sửa chữa tàu biển,...

* Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thành phố Cần Thơ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Phạm vi, ranh giới lập quy hoạch thành phố Cần Thơ gồm toàn bộ thành phố Cần Thơ (tổng diện tích tự nhiên hơn 1.440 km2), với 9 đơn vị hành chính: 5 quận (Ninh Kiều, Cái Răng, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt) và 4 huyện (Phong Ðiền, Thới Lai, Cờ Ðỏ, Vĩnh Thạnh).

Phấn đấu đến năm 2050, Cần Thơ là thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long; thuộc nhóm các thành phố phát triển khá ở châu Á. Ðịnh hướng phát triển, Cần Thơ tập trung vào các ngành công nghiệp hóa chất, cơ khí chế tạo, năng lượng, dược phẩm, điện tử, chế biến nông, thủy sản, thực phẩm và công nghiệp hỗ trợ có tính nền tảng,... Phát triển thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; đẩy mạnh thương mại điện tử, hình thành các trung tâm thương mại cấp vùng. Ðồng thời, phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao, sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế; ưu tiên các dịch vụ logistics, du lịch, y tế, giáo dục, tài chính ngân hàng, khoa học-công nghệ,...

Mục tiêu đến năm 2030, thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng của vùng, có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ thích ứng biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu kết nối nội vùng, liên vùng và liên vận quốc tế. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân từ 7,5% đến 8%; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt hơn 220 triệu đồng; tỷ trọng trong GRDP của khu vực công nghiệp-xây dựng khoảng 35,9%, dịch vụ và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm khoảng 58,2%; nông, lâm, thủy sản khoảng 5,9%,..