Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ: Lê Minh Khái và Trần Hồng Hà; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương, các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong lĩnh vực xi-măng, sắt thép. Hội nghị được truyền trực tuyến tới trụ sở ủy ban nhân dân 32 tỉnh, thành phố trên cả nước có liên quan ngành sản xuất vật liệu xây dựng.
Phát biểu ý kiến khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, xi-măng, sắt thép, vật liệu xây dựng là những vật liệu thiết yếu để xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dân dụng, công nghiệp, sân bay, bến cảng, các công trình quốc phòng, an ninh; hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn... Phát triển bền vững ngành xi-măng, sắt thép và vật liệu xây dựng tại nước ta là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, luôn được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm, đã có nhiều chủ trương, chính sách để thúc đẩy phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu.
Với các chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương; sự tham gia đầu tư sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, ngành xi-măng, sắt thép và vật liệu xây dựng đã có sự phát triển vượt bậc trong 10 năm gần đây, cụ thể: xi-măng đã được đầu tư với tổng công suất đạt 122 triệu tấn/năm, đứng tốp đầu thế giới. Tổng mức đầu tư ước tính theo giá trị hiện nay lên đến 500 nghìn tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD). Gạch ốp lát đã được đầu tư với tổng công suất đạt 831 triệu m2/năm. Tổng mức đầu tư ước tính theo giá trị hiện nay khoảng 100 nghìn tỷ đồng (tương đương 4 tỷ USD). Sứ vệ sinh đã được đầu tư với tổng công suất đạt 26 triệu sản phẩm/năm. Tổng mức đầu tư ước tính theo giá trị hiện nay khoảng 25 nghìn tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD).
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu ý kiến tại Hội nghị. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
Kính đã được đầu tư với tổng công suất đạt 5.900 tấn thủy tinh/ngày (tương đương 331 triệu m2 kính/năm), đứng trong nhóm 5 nước có sản lượng lớn nhất Đông Nam Á. Tổng mức đầu tư ước tính theo giá trị hiện nay khoảng 50 nghìn tỷ đồng (tương đương 2 tỷ USD). Vật liệu xây không nung (VLXKN) đã đầu tư với tổng công suất đạt 12 tỷ viên/năm (viên quy tiêu chuẩn). Tổng mức đầu tư ước tính theo giá trị hiện nay khoảng 12,5 nghìn tỷ đồng (tương đương 500 triệu USD). Ngành thép (giai đoạn 2011-2022) có tốc độ tăng trưởng cao (bình quân đạt 14,25%). Sản lượng thép năm 2022 tăng gấp 5 lần so với năm 2011. Đặc biệt giai đoạn 2016-2022, ngành thép đạt tốc độ tăng trưởng rất cao với mức bình quân 27,11%/năm.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều yếu tố bất lợi trong và ngoài nước cùng với việc thị trường bất động sản chưa phục hồi dẫn đến sản xuất xi-măng, sắt thép và vật liệu xây dựng suy giảm, cụ thể: xi-măng và clinker: Tổng sản lượng sản xuất cả năm 2023 chỉ đạt 92,9 triệu tấn; dây chuyền hoạt động trung bình toàn ngành chỉ đạt 75% tổng công suất thiết kế. Tổng sản lượng tiêu thụ năm 2023 đạt 87,8 triệu tấn, bằng 88% so với năm 2022. Thép xây dựng: Năm 2023, sản xuất thép xây dựng đạt 10,655 triệu tấn (giảm 12,2% so với năm 2022), tiêu thụ đạt 10,905 triệu tấn (giảm 11,2% so với năm 2022) .
Thủ tướng nêu rõ, sản xuất, tiêu thụ vật liệu xây dựng hiện nay rất khó khăn; tình hình này kéo dài lâu nay, chưa có giải pháp đột phá. Do đó Thủ tướng đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị này để đánh giá, xem xét lại nguyên nhân. Chúng ta có thể thấy đứt gẫy chuỗi cung ứng do khó khăn trong nước, từ đó sản xuất, tổng cầu giảm, như khó khăn bất động sản, sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ vật liệu xây dựng khó khăn, đầu tư công chưa tăng mạnh.
Thủ tướng đặt vấn đề tổng cầu giảm, thêm nữa chúng ta chưa kiểm soát được vấn đề nhập khẩu…; do đó, cần tìm ra nguyên nhân, giải pháp phù hợp, đột phá, có thể là là giải pháp phòng vệ theo đúng cam kết quốc tế; đó là đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là xây dựng các công trình tiêu thụ mạnh vật liệu xây dựng trong nước; đó là đề ra các cơ chế, chính sách để khuyến khích như giảm thuế, phí, lệ phí, giảm giá vật liệu xây dựng…
Quang cảnh Hội nghị. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
Thủ tướng đề nghị cần suy nghĩ, thay đổi cách làm, để có các giải pháp đột phá với tinh thần khó mấy cũng phải làm, theo đó có thể cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong hoàn cảnh khó khăn, điều này được thực hiện theo đúng tinh thần kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cần huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc; phải thay đổi phương thức, cách làm; chuyển hướng vào phát triển nhà ở xã hội, phát triển nông thôn. Muốn vậy phải là chính sách do chúng ta đề ra. Vấn đề là phải có cơ chế, chính sách thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cách tiếp cận linh hoạt.
Thủ tướng cho rằng hiện nay có tình trạng có bộ, ngành, cơ quan, địa phương xử lý các vấn đề hết sức cứng nhắc, phức tạp hoá vấn đề… Điều đó đặt ra phải có các cơ chế, chính sách phù hợp; cần thiết tăng tổng cầu trong nước, vì hiện nay, lượng xi-măng, sắt thép dôi dư, trong khi các công trình, hạ tầng chiến lược, nhà ở rất cần vật liệu xây dựng.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu phát biểu ý kiến ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, “đúng, trúng”, tìm ra bài học kinh nghiệm để đề ra giải pháp thời gian tới với việc tổ chức thực hiện, đề ra cơ chế, chính sách khuyến khích, kích cầu tiêu thụ vật liệu xây dựng, từ đó có thể tạo ra việc làm trong nước, tăng tổng cầu…
Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Văn Sinh báo cáo tại Hội nghị. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
* Theo Bộ Xây dựng, trong 10 năm gần đây, tổng năng lực sản xuất các vật liệu xây dựng (vật liệu xây dựng) chủ lực của Việt Nam đã tăng trưởng đạt khoảng 120 triệu tấn xi-măng, 830 triệu m² gạch ốp lát, 26 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, 330 triệu m² kính xây dựng, 20 tỷ viên gạch đất sét nung, 12 tỷ viên gạch không nung (quy tiêu chuẩn). Trong đó, sản lượng xi-măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới. Chất lượng vật liệu xây dựng Việt Nam đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Trình độ công nghệ, tổ chức sản xuất, kinh doanh, môi trường của ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đứng tốp đầu trong các nước ASEAN. Tổng giá trị doanh thu hằng năm ngành vật liệu xây dựng chưa bao gồm thép xây dựng ước đạt khoảng 600.000 tỷ đồng (tương đương hơn 24 tỷ USD), chiếm gần 6% GDP quốc gia.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng trong xây dựng ở nước ta vẫn còn rất lớn vì diện tích nhà ở toàn quốc vẫn còn thấp, tỷ lệ đô thị hóa mới đạt khoảng 43%, hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn chưa phát triển hoàn thiện, trong khi mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa quốc gia đến năm 2050 là 70-75% và diện tích sàn xây dựng hàng năm cần tăng tối thiểu hơn 20 triệu m2; đồng thời còn phục vụ nhu cầu về xây dựng các công trình biển và hải đảo quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, các cơ sở vật chất, phát triển kinh tế biển đảo, gắn với giữ gìn và bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
So với quốc tế, tỷ lệ sử dụng xi-măng của nước ta hiện nay trên đầu người còn thấp, mới đạt khoảng 600 kg/người/năm, trong khi Trung Quốc là hơn 1.500 kg/người/năm, Hàn Quốc là hơn 1.000 kg/người/năm.
Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến tới 32 tỉnh, thành phố trên cả nước có liên quan lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
Về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng cho biết, đối với ngành xi-măng, hiện nay, tổng số dây chuyền sản xuất xi-măng đã đầu tư trên toàn quốc là 92 dây chuyền, với tổng công suất 122,34 triệu tấn/năm (trong đó, có 4 dây chuyền với tổng công suất 11,4 triệu tấn xi-măng/năm đã đầu tư xong nhưng chưa đưa vào vận hành, do không tiêu thụ được sản phẩm).
Các dây chuyền đầu tư từ năm 2011 đến nay đều sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến trên thế giới đạt tiêu chuẩn châu Âu. Đặc biệt, có những dây chuyền sản xuất xi-măng hiện đại nhất trên thế giới như dây chuyền 2 và dây chuyển 3 nhà máy xi-măng Xuân Thành, tỉnh Hà Nam.
Số lượng đầu tư các nhà máy xi-măng theo thời gian cho thấy: đến năm 2010, cả nước đã đầu tư 59 dây chuyền với tổng công suất thiết kế 62,56 triệu tấn/năm, trong đó có 29 dây chuyền có công suất nhỏ từ 0,25-0,65 triệu tấn/năm, 13 dây chuyền công suất từ 0,75-0,91 triệu tấn/năm.
Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 cả nước đã đầu tư được 26 dây chuyền, với tổng công suất 41,48 triệu tấn/năm, nâng tổng số dây chuyền đến năm 2020 của cả nước là 85 dây chuyền, với tổng công suất thiết kế là 104,04 triệu tấn/năm.
Giai đoạn từ năm 2021 đến nay, cả nước đã đầu tư được 7 dây chuyền, với tổng công suất thiết kế là 18,3 triệu tấn/năm. Suất vốn đầu tư trung bình giai đoạn này khoảng 2.500.000-3.700.000 đồng/tấn tùy theo thiết bị đồng bộ của các nước.
Lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương tham dự Hội nghị. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
Tổng mức đầu tư xây dựng các nhà máy xi-măng là rất lớn, với tổng công suất thiết kế 122,34 triệu tấn xi-măng/năm, tổng mức tài chính đầu tư xây dựng các nhà máy xi-măng ước tính theo giá trị hiện nay lên đến 500.000 tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD). Trong đó, ước tính nguồn tài chính từ các ngân hàng trong nước và vốn nhà nước chiếm khoảng 75% tổng mức đầu tư này.
Về sản xuất clinker và xi-măng: trong 10 năm vừa qua (từ năm 2014 đến năm 2023), sản lượng sản xuất clinker và xi-măng nhìn chung đều tăng. Trong đó, sản xuất clinker và xi-măng năm 2021 đạt đỉnh (110,4 triệu tấn).
Từ năm 2023 đến nay, sản xuất clinker và xi-măng sụt giảm nghiêm trọng. Tổng sản lượng sản xuất cả năm 2023 chỉ đạt 92,9 triệu tấn, các dây chuyền hoạt động trung bình toàn ngành chỉ đạt 75% tổng công suất thiết kế.
Trong năm 2023, có 42 dây chuyền phải dừng hoạt động sản xuất khoảng 1 đến 6 tháng, trong đó một số dây chuyển phải dừng cả năm (tương ứng công suất phải dừng hoạt động khoảng 30% tổng công suất thiết kế của cả nước).
Năm 2024, dự kiến đến hết tháng 6/2024, tổng sản lượng sản xuất clinker và xi-măng toàn quốc đạt khoảng 44 triệu tấn xi-măng, tương đương cùng kỳ năm 2023 và các nhà máy cũng dự kiến chỉ đạt khoảng 70-75% tổng công suất thiết kế (trước năm 2022, các nhà máy thường vận hành trên 85%, thậm chí có những năm trên 95% công suất thiết kế). Tồn kho lũy kế khoảng 5 triệu tấn.
Các nhà máy sản xuất xi-măng ở nước ta đã sản xuất được nhiều chủng loại sản phẩm xi-măng phục vụ xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp, đồng thời đã sản xuất được các loại xi-măng chất lượng cao, rắn nhanh, chịu nhiệt, chịu lửa, bền môi trường biển, xi-măng giếng khoan phục vụ khai thác dầu khí,....
Các đại biểu tham dự Hội nghị. (Ảnh: TRẦN HẢI) |
Về kinh doanh: trong 10 năm vừa qua (từ năm 2014 đến năm 2023) tổng sản lượng clinker và xi-măng tiêu thụ hàng năm nhìn chung đều tăng, cao nhất là năm 2022 toàn ngành tiêu thụ đạt 108,4 triệu tấn. Từ năm 2023 đến nay, tiêu thụ clinker và xi-măng đều sụt giảm nghiêm trọng. Tổng sản lượng tiêu thụ năm cả 2023 đạt 87,8 triệu tấn, bằng 88% so với năm 2022. Dự kiến, đến hết tháng 6/2024, tổng sản lượng tiêu thụ clinker và xi-măng đạt khoảng 44 triệu tấn, tương đương cùng kỳ năm 2023.
Tiêu thụ trong nước chủ yếu là xi-măng, trong 10 năm qua nhìn chung đều tăng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tiêu thụ rất thấp, chỉ đạt trung bình khoảng 2,3%/năm, trong khi GDP quốc gia đều tăng bình quân khoảng 5 - 7%/năm.
Năm 2023, tiêu thụ xi-măng trong nước rất thấp, chỉ đạt 56,6 triệu tấn (bằng 83,5% năm 2022), đây là mức sụt giảm lớn nhất từ trước đến nay trong ngành xi-măng. Thị phần tiêu thụ xi-măng trong nước nhìn chung ít biến động, miền bắc chiếm khoảng 34-35%, miền nam khoảng 34-35%, miền trung và Tây Nguyên chiếm khoảng 30-31%. Giá bán xi-măng trong nước từ năm 2022 đến nay không tăng do cạnh tranh mạnh giữa các nhà máy sản xuất xi-măng, thậm chí có chiều hướng giảm, trung bình khoảng 1.400.000-1.600.000 đồng/tấn tại các khu vực đồng bằng và trung du tùy theo các thương hiệu xi-măng; khoảng 1.650.000-2.000.000 đồng/tấn tại các vùng sâu, vùng xa, Tây Nguyên…
Tiêu thụ xuất khẩu bao gồm 2 sản phẩm là clinker và xi-măng. Trong vòng 10 năm qua, sản lượng xuất khẩu clinker và xi-măng nhìn chung có tăng lên. Tuy nhiên, từ năm 2022 lượng clinker xuất khẩu sụt giảm lớn, tổng lượng clinker xuất khẩu cả năm 2022 chỉ đạt 15,2 triệu tấn (bằng 52,9% năm 2021) và tiếp tục sụt giảm xuống 10,9 triệu tấn năm 2023 (bằng 71,7% năm 2022).
Ước tính đến hết 6 tháng đầu năm 2024, lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5,4 triệu tấn. Tình hình sụt giảm xuất khẩu clinker như vậy là rất khó khăn đối với các doanh nghiệp sản xuất. Những năm 2019-2022, giá trị xuất khẩu clinker và xi-măng trung bình khoảng 1-1,3 tỷ USD/năm. Từ năm 2023 đến nay, giá trị xuất khẩu clinker và xi-măng giảm sút do giá xuất khẩu bị giảm rất mạnh…
Hội nghị đã thống nhất đánh giá về những kết quả đạt được; thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân; nhận diện tình hình, thách thức và đề xuất nhiều giải pháp để thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi-măng, sắt thép và vật liệu xây dựng thời gian tới. Đại diện các hiệp hội đã kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành nhiều giải pháp liên quan như giảm, miễn, giãn, hoãn các loại thuế, phí, lệ phí; tăng cường phát triển nhà ở xã hội; nghiên cứu tăng cường xây dựng các hệ thống cầu cạn để tăng tỷ lệ sử dụng xi-măng; đầu tư mạnh mẽ phát triển giao thông nông thôn; có chính sách tài chính, tái sử dụng các chất thải trong sản xuất xi-măng; tăng cường bảo hộ các sản phẩm trong nước bằng các hàng rào kỹ thuật; tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống hàng giả…
Phát biểu ý kiến kết luận Hội nghị, nhấn mạnh yêu cầu để ngành xi-măng, sắt thép, vật liệu xây dựng phát triển bền vững, Thủ tướng nhấn mạnh: Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành địa phương và các cơ quan liên quan thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 (Quyết định số 1266/QĐ-TTg); Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1626/QĐ-TTg); Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 866/QĐ-TTg), cũng như thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án đầu tư công, các dự án hạ tầng; đề án đầu tư 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội,…
Về quan điểm phát triển ngành vật liệu xây dựng, Thủ tướng lưu ý thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng bền vững; bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo; kịp thời phản ứng chính sách; thực hiện phải quyết liệt, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm; phát triển phải bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu; tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng, có giá trị kinh tế cao.
Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm khoáng sản; sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất; hạn chế tối đa ảnh hưởng môi trường trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất vật liệu xây dựng, sắt thép. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển xi-măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, nhất là đẩy mạnh đầu tư công để tiêu thụ các sản phẩm của ngành vật liệu xây dựng. Phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất xi-măng, sắt thép, vật liệu xây dựng trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng miền.
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh, phải rà soát lại các cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành vật liệu xây dựng nhanh và bền vững. Các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội phải chủ động, vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, vận dụng khoa học công nghệ, phản ứng nhanh với tình hình; theo dõi sát, tăng cường năng lực dự báo các yếu tố tác động trong và ngoài nước để có các phương án chủ động ứng phó kịp thời. Đẩy mạnh đầu tư công, phát triển hạ tầng chiến lược, phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh, các công trình biển và hải đảo phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế biển. Tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở: đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023; thực hiện quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.
Tăng cường triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác. Tăng tỷ lệ lựa chọn phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng như có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng đồng bằng sông Cửu Long; tăng cường sử dụng công nghệ gia cố đất bằng xi-măng trong xây dựng đường bộ để nâng cao chất lượng, tuổi thọ đường, đồng thời sử dụng nguồn xi-măng trong nước đang có xu hướng dư thừa. Đẩy mạnh xây dựng các công trình chống biến đổi khí hậu; tăng cường sử dụng đường bê tông xi-măng cho xây dựng đường nông thôn, miền núi và đường tại những vùng thường xuyên ngập lụt. Tập trung xây dựng nhà ở xã hội, trong khu công nghiệp, khu đô thị mới; ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi xanh, chuyển đổi xanh để giảm giá thành, tăng cạnh tranh; chống buôn lậu, gian lận thương mại; thiết lập các hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu…
Thủ tướng chỉ đạo các doanh nghiệp phải tái cấu trúc lại quản trị, tài chính, đầu tư, nguyên liệu đầu vào để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm; đầu tư nâng cấp, cải tạo chiều sâu đối với công nghệ, thiết bị của các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng hiện có để tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Đầu tư các hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư trong sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng, đặc biệt là trong các nhà máy sản xuất clinker và xi-măng; đầu tư sử dụng rác thải để thay thế nhiên liệu đốt, sử dụng phế thải công nghiệp để thay thế nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên để giảm chi phí nguyên, nhiên liệu trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tái cấu trúc sản phẩm đầu vào. Đầu tư các trạm nghiền xi-măng tại các vùng thuận tiện về giao thông, cảng biển, có nguồn khoáng sản phụ gia làm xi-măng, có nguồn phát thải tro, xỉ, thạch cao,…; đầu tư các công nghệ mới để giảm phát thải, thực hiện tốt kinh tế tuần hoàn, phát triển xanh.
Về sản xuất, cần đa dạng hóa sản phẩm vật liệu xây dựng phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu khác nhau, đáp ứng như cầu thị trường. Rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, điện, dầu, khí đốt; chuyển đổi số, chuyển đổi xanh một cách sáng tạo; đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải từ các ngành khác để hạ chi phí sản xuất; kết hợp giải pháp đồng xử lý rác thải công nghiệp, sinh hoạt để bảo vệ môi trường.
Về công tác quản trị và thị trường: tăng cường tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước thông qua triển khai tại các dự án lớn, dự án đầu tư công, công trình xây dựng thủy lợi, phòng chống thiên tai,… cũng như các hộ dân xây dựng, sửa chữa nhà ở đô thị và nông thôn. Rà soát lại hệ thống đại lý bán hàng; cắt giảm các bộ phận, các khâu trung gian từ nhà máy sản xuất tới khách hàng tiêu thụ sản phẩm; rà soát tiết giảm các chi phí bán hàng phù hợp; tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm vật liệu xây dựng; các doanh nghiệp vật liệu xây dựng, đặc biệt là xi-măng, không hạ giá bán dưới giá thành sản phẩm và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh.
Về tài chính, cần cơ cấu lại nguồn vốn, tiết giảm chi phí để bảo đảm dòng tiền trả nợ ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào, nhân công và các chi phí khác trong sản xuất; không sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư vào danh mục đầu tư trung và dài hạn; chủ động trao đổi với các ngân hàng để khoanh, giãn nợ và có kế hoạch, lộ trình trả nợ để đảm bảo an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; sử dụng các nguồn vốn để thanh toán các khoản vay cũ lãi suất cao và vay các khoản vay mới lãi suất thấp để tiết giảm chi phí tài chính.
Thủ tướng yêu cầu: về tháo gỡ khó khăn tài chính, giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, đánh giá, sửa đổi các quy định về khoanh nợ, giãn nợ, hạ lãi suất ngân hàng đối với các khoản nợ của các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng cho phù hợp.
Về sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao nhân tạo,… trong sản xuất xi-măng và các vật liệu xây dựng khác: giao Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng thực hiện các nội dung sau: xây dựng, ban hành chính sách ưu đãi cụ thể đối với các nhà máy sản xuất xi-măng và vật liệu xây dựng khác khi sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp. Quy định chặt chẽ trách nhiệm của chủ nguồn thải về chi trả chi phí vận chuyển và xử lý rác thải, tro xỉ, thạch cao,… để làm nhiên liệu, nguyên liệu trong sản xuất xi-măng và vật liệu xây dựng khác.
Về chính sách xuất nhập khẩu sản phẩm vật liệu xây dựng, Thủ tướng yêu cầu vừa phải bảo hộ sản xuất trong nước, giảm nhập khẩu, bảo đảm cạnh tranh của thị trường; có cơ chế, chính sách khuyến khích sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu…
Về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xi-măng, Thủ tướng giao Bộ Xây dựng nghiên cứu đề xuất thiết lập lại Quy hoạch lĩnh vực xi-măng để bổ sung vào Luật Quy hoạch (sửa đổi) trong thời gian tới.
Thủ tướng giao Bộ Xây dựng nghiên cứu thực hiện biện pháp về phòng vệ thương mại, chống bán phá giá đối với các sản phẩm gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng nhập khẩu, bảo đảm phù hợp những quy định trong tự do thương mại của WTO. Về tăng cường nghiên cứu sử dụng cầu cạn bê-tông cốt thép trong xây dựng các tuyến đường cao tốc: cần phải bảo đảm cân đối hợp lý, bảo đảm hiệu quả, bảo vệ môi trường từng dự án cụ thể, đoạn tuyến cụ thể.