Tỷ lệ nợ công/GDP giảm
Chiều 23/10, tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, trình bày Báo cáo của Chính phủ sơ kết 3 năm thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc nhấn mạnh, 3 năm 2021-2023 triển khai Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025, công tác huy động, trả nợ công, các chỉ tiêu an toàn nợ công, hạn mức vay và bảo lãnh Chính phủ, vay nợ chính quyền địa phương đều thực hiện bảo đảm mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội.
Theo đó, tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1,317 triệu tỷ đồng (đạt 42,9% kế hoạch), trong đó vay của ngân sách trung ương khoảng 1,279 triệu tỷ đồng (đạt 44,1% kế hoạch).
Vay của Chính phủ chủ yếu huy động với kỳ hạn dài (kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2021-2023 từ 12,6-13,92 năm, bảo đảm mục tiêu 9-11 năm); lãi suất ưu đãi và tập trung vào vốn vay trong nước.
Trả nợ thực hiện theo đúng cam kết, trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 906,7 nghìn tỷ đồng (đạt 53,3% kế hoạch).
Nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn, đến cuối năm 2023 nợ công khoảng 4 triệu tỷ đồng, khoảng 39-40% GDP, giảm từ mức 42,7% GDP năm 2021. Nợ Chính phủ khoảng 3,7 triệu tỷ đồng, khoảng 36-37% GDP, giảm từ mức 38,7% GDP năm 2021.
Về cơ cấu nợ của Chính phủ, đến cuối 2023, nợ trong nước chiếm 73% dư nợ Chính phủ, tăng từ mức 67% năm 2021.
Nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 3,8 triệu tỷ đồng, khoảng 37-38% GDP, tương đương với mức 38,1% GDP năm 2021. Trong cơ cấu dư nợ nước ngoài của quốc gia, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng tăng từ mức 61,4% năm 2021 lên 70,7% năm 2023, nợ Chính phủ và Chính phủ bảo lãnh vay nước ngoài giảm từ mức 38,6% năm 2021 xuống 29,3% năm 2023.
Quang cảnh phiên họp của Quốc hội chiều 23/10. (Ảnh: THỦY NGUYÊN) |
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không bao gồm nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản cho vay lại) trên tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 20-21%, giảm nhẹ so với mức 21,5% năm 2021.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia (không bao gồm nghĩa vụ trả nợ gốc ngắn hạn dưới 12 tháng) trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ khoảng 7-8%, tăng so với mức 6,2% năm 2021 do trong điều kiện thị trường tài chính toàn cầu thắt chặt, lãi suất tăng cao, các doanh nghiệp ít vay mới, chủ yếu trả nợ.
Theo Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, trong thời gian qua, công tác quản lý nợ công cũng phát sinh một số khó khăn, hạn chế như quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước chưa phát triển, điều kiện vay ngày càng thắt chặt hơn trong khi áp lực huy động vốn vay cho đầu tư phát triển lớn; việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn, giải ngân đạt thấp so với dự toán; công tác quản lý nợ của chính quyền địa phương cần được tiếp tục củng cố.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tăng cường quản lý ngân sách, nợ công; thực hiện đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 23, số 43 của Quốc hội; chủ động triển khai thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chính phủ để khắc phục các tồn tại đã nêu.
Tích cực các biện pháp kiểm soát an toàn nợ công
Trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nêu rõ, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành công tác quản lý vay, trả nợ công.
Trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn tới kinh tế trong nước, các chỉ tiêu Quốc hội đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 đã được Chính phủ chủ động kiểm soát.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh. (Ảnh: THỦY NGUYÊN) |
Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cũng cho biết, báo cáo của Chính phủ đã đánh giá thẳng thắn về những vấn đề còn hạn chế trong công tác quản lý vay, trả nợ.
Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhận thấy, các chỉ tiêu, tỷ lệ an toàn nợ công trong giai đoạn 2021-2023 và dự kiến 2 năm còn lại của giai đoạn trong hạn mức được Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, cần lưu ý vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách nhà nước năm 2024 đã tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội.
Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ phân tích kỹ những vấn đề này, có giải pháp điều hành cân đối ngân sách nhà nước chủ động, bảo đảm an toàn nợ công.
Ngoài ra, việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn; việc giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài rất chậm, nhiều năm không đạt dự toán (lũy kế thanh toán vốn đầu tư công năm 2021 đạt 32,85% kế hoạch, năm 2022 đạt 45,45%, đều dưới 50%).
Trước những hạn chế nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nhất trí với giải pháp Chính phủ đã nêu. Theo đó, tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội. Đồng thời, Chính phủ tích cực, chủ động, triển khai thực hiện các giải pháp về điều hành thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ tiếp tục theo dõi, đánh giá kỹ về một số vấn đề nổi lên liên quan vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách nhà nước năm 2024 tăng khá lớn; tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ hằng năm trong khi tồn dư ngân sách lớn từ số chuyển nguồn tăng thu ngân sách nhà nước năm 2021, 2022, số dư nguồn cải cách tiền lương không thể sử dụng... để trong điều hành ngân sách nhà nước, xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng vốn vay tiết kiệm, hiệu quả và đề xuất giải pháp cân đối ngân sách nhà nước chủ động, bảo đảm an toàn nợ công…
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xem xét nghiêm túc, đánh giá toàn diện về nguyên nhân bất cập, vướng mắc kéo dài; hiệu quả của các dự án; tính hợp lý của phương án huy động vốn; trách nhiệm trong huy động, phân bổ, sử dụng vốn ODA... để đề xuất giải pháp thiết thực, xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế kéo dài, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay.