Sông Ngũ Huyện Khê bắt nguồn từ Ðông Anh (Hà Nội) chảy qua bốn huyện của tỉnh Bắc Ninh rồi ra sông Cầu. Sông Ngũ Huyện Khê còn có tên là sông Thiếp, vì Bà Chúa Vườn hồng quả cảm từ kinh thành Cổ Loa về thăm quê thường đi thuyền rồng trên sông Ngũ Huyện Khê.
Sông Ngũ Huyện Khê cùng với sông Tiêu Tương để lại một di sản văn hóa quý báu, nhất là văn hóa quan họ, dân ca quan họ Bắc Ninh.
Bắc Ninh có 49 làng quan họ gốc, thì đôi bờ sông Ngũ Huyện Khê thuộc TP Bắc Ninh có tới 16 làng, tập trung ở các xã Hòa Long, Vạn An, Khúc Xuyên và Phong Khê. Ở đây có làng Riềm thờ thủy tổ Quan họ gọi là Ðền Vua Bà, có làng Ðào Xá đặc trưng cho một nét riêng quan họ của vùng nghề truyền thống làm giấy dó, v.v.
Ðặc điểm và lối hát quan họ ở các làng đôi bờ sông Ngũ Huyện về cơ bản là như nhau. Trình tự một canh hát như sau: hát các bài thuộc giọng lề lối; hát các bài thuộc giọng vặt, hát những bài giọng giã bạn. Tuy nhìn chung là mang tính đại đồng, song hát quan họ ở các làng lại có những nét riêng. Những nét riêng đặc sắc, độc đáo đó góp phần cho cái chung quan họ Kinh Bắc được phong phú, hấp dẫn lòng người.
Làng Riềm có tục "hát quan họ trùm đầu". Vào những đêm trăng sáng, con trai quan họ trùm lên đầu khăn hoặc áo, từ chỗ "ngủ bọn" của mình sang chỗ "ngủ bọn" của nữ quan họ cùng làng. Các anh đứng ở ngoài bờ rào hát với vào. Khi ấy, các nữ quan họ cũng trùm khăn, áo lên đầu ra đứng ở hè hát đáp lại.
Tục truyền rằng, bà vợ chúa Trịnh về sống ở làng này đã tụ tập những trai thanh, gái lịch để dạy họ hát. Họ học hát vào ban tối là chính, bởi ban ngày họ còn lo đồng áng. Cho nên, có nhiều đêm, các trai thanh từ chỗ "ngủ bọn" của mình sang chỗ "ngủ bọn của các nữ tú để hát". Ðể tránh "điều ong tiếng ve" do lễ giáo phong kiến, họ phải trùm khăn lên đầu che mặt.
Làng Riềm còn có tục hát quan họ cầu đảo, và cũng chỉ ở đây có. Thủy tổ Quan họ được xem là "Nam Hải Ðại Vương", thể hiện rõ trong bài vị ở Ðền Vua Bà "Ðương cảnh thành hoàng, Quốc vương thiên tử, Như nương nam nữ, Nam Hải đại vương".
Chính vì vậy khi có hạn hán, dân làng Riềm tổ chức hát quan họ cầu đảo ở Ðền Vua Bà. Lễ cầu đảo kéo dài ba ngày ba đêm liền. Ngày thì cúng lễ, đọc văn, diễn xướng, cướp quả cầu, còn đêm thì tập trung toàn bộ các bọn quan họ nam, nữ trong làng đến hát quan họ.
Quan họ cầu đảo chỉ hát những bài thuộc giọng lề lối, như a rằng, hừ la, tình tang cây gạo, lái cả, v.v., trong đó giọng a rằng được hát nhiều nhất. Quan họ làng Riềm còn đi các nơi hát cầu đảo theo lời mời của địa phương.
Nhiều nơi tổ chức hát quan họ dưới thuyền, nhưng chỉ là cầu vui, không tổ chức theo thường niên. Nhưng với làng Quan họ Châm Khê thì hát quan họ dưới thuyền đã trở thành một lệ tục truyền thống và còn mang tính diễn xướng nghi lễ của ngày hội chùa ở đây. Ngày 28 tháng Giêng là hội Chùa Châm Khê.
Ngày 23 tháng Giêng, tức là trước hội chùa năm ngày, làng Châm Khê làm lễ tắm Phật. Tất cả các bọn quan họ trong làng đều được tham gia đám rước lấy nước từ giếng ở Nghè trên bãi soi giữa sông Ngũ Huyện Khê lên chùa tắm Phật. Chỉ huy là một ông già. 10 tay chèo thuyền đều là nữ thanh tân, ăn mặc theo nghi thức ngày hội.
Khi thuyền rồng bắt đầu khởi hành cũng là lúc từ hai bên bờ, thuyền nan từng đôi san sát, một thuyền nam, một thuyền nữ, từng cặp thuyền quay mặt vào nhau, vừa bơi vừa hát quan họ. Thuyền rồng ra đến giếng Nghè, người ta khiêng chum đặt gần bờ giếng. Bấy giờ trai gái quan họ dàn thành hai hàng dọc, múc nước ở giếng rồi chuyền tay nhau đổ vào chum, vừa làm vừa hát. Thuyền rồng đã quay về, nước đã được đem lên tắm Phật, nhưng nam nữ quan họ vẫn ngồi trên thuyền nan, len lỏi qua các đám lau lách trên sông mà hát tới khuya. Hát quan họ ở thuyền như thế còn tiếp tục cho tới hết ngày chính hội 28 tháng Giêng mới mãn cuộc.
Vào ngày hội Chùa, làng Khúc Toại thường tổ chức thi hát quan họ trên thuyền dọc sông Ngũ Huyện Khê. Liền anh, liền chị các nơi và khách thập phương đứng trên Cầu Chọi bắc qua sông Ngũ Huyện Khê mà xem hát quan họ, thật là một cảnh nên thơ. Cầu Chọi là công trình văn hóa cổ kính được kiến trúc theo kiểu "thượng gia, hạ trì" (trên là nhà, dưới là đường đi).
Cầu được xây dựng ở thời Lê. Cầu Chọi làng tô thêm cảnh hữu tình của hai làng Trà Xuyên, Khúc Toại trù phú và giàu bản sắc văn hóa quan họ. Cho nên Cầu Chọi là giao điểm của các cuộc hẹn hò, là nơi giao lưu của nhiều du khách. Là tụ hội của "các bọn" quan họ.
Nhân dân ở đây vẫn lưu truyền bài ca dao ca ngợi Cầu Chọi: Là là bóng nước, bóng làng/ Trên lầu bóng thiếp, bóng chàng bên nhau/ Dừng chân ngắm lặng giờ lâu/ Ai về làng Chọi ca câu ân tình.
Những nét riêng của các làng quan họ đôi bờ sông Ngũ Huyện Khê đã phản ánh phần nào tình hình kinh tế - xã hội của từng làng. Làng Riềm từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng là quê hương trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa.
Còn làng Chọi (tên gọi của hai làng Trà Xuyên, Khúc Toại trước đây) thì nổi tiếng về nghề đóng đồ gỗ. Nhân dân Bắc Ninh ai cũng biết câu: "Mã Ðông Hồ, đồ làng Chọi".
Làng Ðào Xá có nghề làm giấy dó. Giấy dó Ðào Xá đã giúp các dòng họ ghi gia phả, giúp các làng ghi thần phả, giúp các ông đồ và nho sinh dạy chữ, học chữ và giấy dó ở đây còn để in tranh Ðông Hồ.
Vì xuất phát từ một nền kinh tế, xã hội, văn hóa đặc thù nên cái riêng quan họ của mỗi làng đôi bờ sông Ngũ Huyện Khê đều được giữ gìn và phát huy hết đời này đến đời khác. Quan họ chủ yếu hát vào dịp lễ hội mùa xuân trong các ngày hội Giêng, Hai của các làng quan họ.
Ðến nay, các ngày mồng 9, mồng 10 tháng Giêng ở Bắc Ninh đã hình thành một nét đẹp văn hóa mới. Tỉnh mở hội thi tiếng hát quan họ đầu xuân. Ngoài hội Chùa ở các làng quê, Bắc Ninh còn tổ chức cho các làng quan họ về Hội Lim 13 tháng Giêng dựng trại để hát phục vụ khách thập phương đến chơi hội.