Một sắc thái văn hoá độc đáo
Mộc bản là bản gỗ (gỗ thị, lê, táo hoặc nha đồng - những loại gỗ mịn, trắng), khắc thủ công chữ Hán hoặc chữ Nôm (khắc ngược) để in ra thành những trang sách. Dưới triều Nguyễn, có hàng chục ngàn Mộc bản, chứa đựng nội dung của hàng trăm cuốn sách với nhiều chủ đề khác nhau như: Lịch sử, địa lý, chính trị - xã hội, quân sự, pháp chế, giáo dục, văn thơ...
Tài liệu mộc bản có nhiều tác phẩm quý hiếm và lớn nhất dưới thời quân chủ như: Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.... Ngoài ra còn có các tác phẩm Ngự chế văn, Ngự chế thi do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức...sáng tác.
Việc ấn hành được quy định nghiêm ngặt (hoàng đế ban dụ cho phép biên soạn và giám sát, chỉnh lý...). Tuy nhiên, những bộ sách ngoài chính văn, chính sử như thơ văn của các ông hoàng thì chỉ cần xin giấy phép của vua là được khắc in.
Mộc bản là độc bản, là bản gốc để in thành sách. Bởi vậy đây là nguồn sử liệu tin cậy để khảo cứu, đối chiếu, đính chính các nguồn sử liệu liên quan. Ngoài giá trị về mặt sử liệu còn có giá trị về nghệ thuật, kỹ thuật chế tác.
Mộc bản là một sắc thái văn hoá độc đáo của Việt Nam dưới thời Nguyễn. Ngoài việc biểu dương và phổ biến các công trình văn hoá, học thuật của Việt Nam như đã dẫn, Mộc bản còn cho chúng ta biết những chuyện thú vị ngoài sách.
Ví dụ bộ sử “Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên), phần ghi chép về các thời Thành Thái, Duy Tân và Khải Định không được khắc Mộc bản để in (với lý do triều đình không có tiền) mà chỉ được chép tay lại thành 6 bản, và hiện chỉ còn một bản đầy đủ được lưu giữ tại Pháp.
Hoặc bộ “Đại Nam nhất thống chí” gồm hai bộ. Một bộ được khắc Mộc bản từ thời Tự Đức nhưng chưa kịp in thành sách thì bị ngưng lại do sự kiện kinh đô thất thủ. Đến thời Duy Tân, “Đại Nam nhất thống chí” lại được khắc Mộc bản để in, nhưng lại chỉ khắc chính thức các tỉnh thuộc Trung Kỳ, do lúc đó Nam Kỳ là thuộc địa và Bắc Kỳ thuộc xứ bảo hộ của Pháp.
Không chỉ có Mộc bản cung đình
Tháng 7 vừa qua, Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.555 tấm là những ghi chép chính văn và chính sử, cũng như các pho sách cổ do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ 1802 - 1945, theo công bố của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia đã được đưa vào danh mục “di sản tư liệu” thuộc chương trình “Ký ức của Thế giới” (MOW) của UNESCO.
Theo chúng tôi, những gì UNESCO vừa công nhận mới chỉ là một phần của “Ký ức của Thế giới”, và phần ký ức này lại nằm ngoài Huế - hiện phần lớn Mộc bản đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4 ở Đà Lạt và một phần ở Trung tâm 1 của Hà Nội. Nó chưa phản ánh hết và đầy đủ diện mạo của loại hình văn hoá độc đáo này.
Ở Huế và ngoài Huế hiện còn có một khối lượng lớn Mộc bản là thơ văn của các ông hoàng như Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương và các nho sĩ (hầu hết là quan lại) nổi tiếng lúc bấy giờ, ví dụ bản khắc gỗ truyện Kiều của Nguyễn Du. Ở Huế hiện còn có một khối lượng Mộc bản đồ sộ là kinh sách, hiện được lưu giữ rải rác ở các chùa, mà nhiều nhất là chùa Từ Đàm.
| Về mặt số lượng đã công bố, theo ông Nguyễn Phước Hải Trung – Giám đốc Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế, con số 34.555 tấm Mộc bản (tương đương 152 đầu sách) được UNESCO công nhận là một con số thiếu toàn diện. Bởi nhìn lại lịch sử, bởi chỉ tính riêng số sách về lĩnh vực sử học của tập thể tác giả (Quốc sử quán, Hàn lâm viện, Nội các triều Nguyễn) và các tác giả ( Thiệu Trị, Tự Đức...) được biên soạn và in ấn thì cũng đến trên 1.200 quyển với trên 65.000 trang in, tương đương 65.000 Mộc bản. Đó là chưa tính tới các lĩnh vực văn học, địa lý, luật, lịch pháp, thiên văn... |
Tương tự, riêng Tân thư viện (1909, thuộc Quốc Tử giám, sau này đổi tên thành Thư viện Bảo Đại), đến năm 1914, sử sách cũng đã ghi nhận ở đây đã lưu trữ 44.570 bản sách của trên 2.600 bộ sách khác nhau.
Và sức lan toả của Mộc bản.
Ít người biết, ngoài Mộc bản (âm bản) là những bản khắc gỗ, ở Huế còn có một loại hình Mộc bản dương (dương bản) để xem, đọc, là những tranh vẽ, thơ văn...được trang trí theo lối “nhất thi nhất hoạ” trên các di tích Huế, mà nhiều nhất là ở điện Thái Hoà.
Theo ông Nguyễn Phước Hải Trung, người đã làm luận văn thạc sĩ ngôn ngữ về thơ chữ Hán trên điện Thái Hoà thì dương bản xuất phát từ Mộc bản, chính là sự lan toả để tạo nên những cái mới và làm nên sự độc đáo riêng có của Mộc bản triều Nguyễn.
Ông dẫn chứng: Phần lớn những dương bản thơ văn được khắc trang trí trên điện Thái Hoà và các di tích khác của triều Nguyễn đều lấy từ thơ văn của các vua triều Nguyễn đã được khắc Mộc bản và in thành sách trước đó. Đặc biệt, Mộc bản dương trên điện Thái Hoà được thể hiện bằng chữ Hán rất phong phú với các kiểu chữ: Chân, Thảo, Triện, Lệ...
Ngoài thơ văn trên các di tích, còn có một kiểu “lan toả” khác của Mộc bản độc đáo hơn, là các bức tranh và hoạ tiết, mà các bản khắc tranh và hoạ tiết của Bộ Công in trong bộ sách “Ngự đề danh thắng đô hội thi tập” của vua Thiệu Trị là một ví dụ.
Năm 1843, vua Thiệu Trị trong lúc tuần du, thấy nhiều cảnh đẹp nên đã vịnh thơ xếp hạng gọi là “Thần kinh nhị thập cảnh” (12 cảnh đẹp của đất Thần kinh), gồm bài chủ “Vĩnh Thiệu Phương Văn” và những bài con kèm theo. Năm 1844, Bộ công vẽ tranh minh hoạ tập thơ và vua Thiệu Trị cho khắc Mộc bản. Sau khi thấy bản khắc Mộc bản quá đẹp, vua lại sai đại thần mang những mộc bản qua Trung Quốc để làm thành những bức tranh gương ký kiểu.
| “Dương bản xuất phát từ mộc bản khắc trên những di tích Huế là một biểu tượng thẩm mỹ độc đáo của triều Nguyễn mà các triều đại trước của Việt Nam và các nước cùng chung hệ văn hoá như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản...không hề có”. - Ông Nguyễn Phước Hải Trung |
Một tấm mộc bản triều Nguyễn đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4
Một bản in từ Mộc bản, hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4
Ảnh: Khắc Dũng