Trong đó có những danh nhân mà cả cha và con đều được đặt tên cho đường, phố. Ðó là: Ðặng Tất - Ðặng Dung, Phan Huy Ích - Phan Huy Chú, Lương Văn Can - Lương Ngọc Quyến, Hoàng Ðạo Thành - Hoàng Ðạo Thúy...
PHAN HUY ÍCH - PHAN HUY CHÚ:
HAI VỊ HỌC GIẢ UYÊN BÁC, NHỮNG SỨ THẦN TÀI NĂNG
Phan Huy Ích (1751-1822) là danh sĩ cuối đời hậu Lê, làm việc dưới trướng Chúa Trịnh. Ông cũng là một công thần nhà Tây Sơn. Ông người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Cư trú ở làng Thầy, huyện Quốc Oai (Hà Nội).
Phan Huy Ích thi Hương đỗ giải Nguyên, 26 tuổi đỗ Hội nguyên. Ðệ tam đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1775). Sau khi thi đỗ được bổ chức Hàn lâm thừa chỉ. Sau được điều đi giữ chức Tham chính xứ Sơn Nam, Ðốc đồng Thanh Hóa, sau về triều làm Thiêm sai tri hình ở phủ chúa Trịnh. Từ năm Canh Tý (năm 1780), ông chán ghét Chúa Trịnh, Vua Lê, mấy lần cáo bệnh về hưu đều không được chấp nhận.
Tháng 5-1788, Vua Quang Trung ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền, Phan Huy Ích cùng Ngô Thì Nhậm, Ðoàn Nguyên Tuấn, Nguyễn Thế Lịch ra hợp tác với nhà Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong Tả thị lang bộ Hình, tước Thụy Nham hầu. Ông cùng với Ngô Thì Nhậm được giao nhiệm vụ xây dựng chính quyền Tây Sơn ở Bắc Hà. Sau đại thắng quân Thanh, ông phụ trách công việc ngoại giao.
Năm 1790, Phan Huy Ích được cử làm Chánh sứ đưa giả vương sang nhà Thanh. Ðoàn sứ bộ gồm 150 người, trong số đó có con trai Quang Trung là Nguyễn Quang Thùy, Ðại Tư mã Ngô Văn Sở, Ðô đốc Nguyễn Duật...
Sau khi hoàn thành tốt đẹp công việc củng cố mối quan hệ giao hảo giữa hai nước, năm 1792 về nước, ông được thăng Thị trung ngự sử ở tòa Nội các rồi Thượng thư bộ Lễ. Cũng trong những ngày này, Vua Quang Trung mất, ông cố gắng giúp đỡ vua trẻ Quang Toản, nhưng cũng không ngăn nổi sự suy vi của nhà Tây Sơn. Ông đã để lại cho đời một số danh tác như: Nam trình tạp vịnh, Cẩm trình ký hứng, Thanh Châu lư hướng, Vân Sơn khiển hướng, Trinh hà ký hành, Cúc thu bách vịnh Nam trình tục tập, Vân du tùy bút.
Phan Huy Chú (1782-1840), tự là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, là danh sĩ triều Nguyễn, trước tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy nên đổi là Chú, là con trai thứ ba của Phan Huy Ích, mẹ là con gái của Ngô Thì Nhậm.
Sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khuê (làng Thầy), huyện Quốc Oai, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình khoa bảng nên ngay từ nhỏ ông được nuôi dạy rất chu đáo. Vốn thông minh lại cần cù, ông nổi tiếng hay chữ khắp vùng. Từ năm 27 tuổi đến năm 37 tuổi (1809-1819), Phan Huy Chú dành cả tâm trí và tài năng viết "Lịch triều hiến chương loại chí". Ðây là bộ bách khoa thư đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước phát triển cao về học thuật ở nước ta đầu thế kỷ 19. Chính công trình này đã tôn vinh Phan Huy Chú lên nhà bác học lớn của Việt Nam. Ông đi sứ nhà Thanh hai lần (năm 1825, 1831), giữ chức Phủ thừa phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam. Sau đó bị cách chức, rồi lại được cử đi công cán ở In-đô-nê-xi-a. Khi về ông được giữ chức Tư vụ bộ Công. Chán cảnh quan trường nên viện cớ đau chân, ông xin từ quan về dạy học và viết sách. Ngoài "Lịch triều hiến chương loại chí" ông còn viết các tác phẩm: Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành dã lục, Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ Trung Quốc), Hải trình chí lược, Hoa trình tục ngâm, Lịch địa điểm thông luận, Dương trình ký kiến. Phố Phan Huy Ích dài 176 m, từ phố Nguyễn Trường Tộ đến phố Quán Thánh. Phố Phan Huy Chú dài 365 m, từ phố Lê Thánh Tông đến phố Hàn Thuyên.
(Còn nữa)
ÐẶNG VIỆT THỦY