ND- Nhớ lại cái thời mới vào nghề báo tôi đạp xe không chuông không phanh cùng một đồng nghiệp đến làm việc với nông trường chè Tây Sơn. Hồi ấy đạp xe đã vất vả nhưng vào được vùng sơn cước này lại vất vả hơn. Mồ hôi tóa ra như tắm.
Sang bên kia Tây Sơn giống như một ốc đảo, chờ mãi mới có một chiếc đò chở khách qua sông. Bánh xe lăn đi, nghe tiếng xích kêu cót két và tiếng những hòn sỏi xát vào bánh lột sột. Nhưng cuối cùng cũng tới đích. Tất cả sự nhọc nhằn của cuộc hành trình đã tan biến, bởi lần đầu tiên tôi được hưởng bầu không khí trong lành của xứ sở Xanh. Mới đó đã hơn hai chục năm ròng. Sự biến tấu của thời gian đã thay đổi diện mạo vùng đất thâm u thành làng công nhân trù phú.
Trước mắt tôi là chập chùng những ngọn đồi với vòng sóng lượn của chè theo hình xoáy trôn ốc. Nắng tháng ba tráng một lớp nhũ vàng làm cho búp chè như rướn hết sức bình sinh để khoe mầu non mới. Hoa chè nhuần nhụy và tinh khiết tẩm vào gió một mùi hương thơm lan tỏa khắp không gian. Giám đốc Nguyễn Văn Nhâm nước da bánh mật, cặp lông mày rậm với bước đi xăng xái nói: "Nếu nói về tiềm năng của đất Tây Sơn không thể có một vùng đất nào ở Hà Tĩnh thích ứng trồng chè bằng xứ này. Nếu tính tới đức tính cần cù và sáng tạo trong lao động cũng chẳng ai bằng công nhân ở đây". Anh Nhâm mở tủ gỗ lấy ra một tấm bản đồ to đặt trên bàn và cầm cây thước chỉ cho tôi hiểu: "Những vùng đất mà chúng tôi được tỉnh cho phép quản lý và sản xuất không chỉ là hậu thuẫn vững mạnh cho hôm nay còn cho cả ngày mai". Tôi vừa nhìn biểu đồ cột số ghi rõ mức tăng trưởng cây chè hằng năm vừa thầm nghĩ sự tự tin của anh Nhâm là có cơ sở. Ðến thời điểm này cả xí nghiệp chè Tây Sơn đã có gần 250 ha đất trồng chè giống mới năng suất cao và 500 ha đất trọc phủ xanh được kết tinh bằng ý chí "bàn tay ta làm nên tất cả". Một hoạch định mới cả tập thể đang dồn lực để đạt mục tiêu từ năm 2010 trở đi đưa năng suất chè lên 80 tạ/ha, xây dựng vùng chè Tây Sơn có quy mô hơn 500 ha vào năm 2015, với tổng sản lượng chè búp tươi hơn 4.000 tấn.
Không phải khoa trương thành tích hay quảng bá thương hiệu, nhưng vào dịp cuối tháng 12 năm 2009 Xí nghiệp chè Tây Sơn đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 50 năm "ngày sinh tháng đẻ" đơn vị mình. Cuộc gặp gỡ đầy cảm động, khi bao nhiêu thế hệ già trẻ được dịp sum vầy bên nhau. Có người xin hát lại bài hát cũ một thời mình đã hát, có người xin gửi cảm xúc chân thành bằng một bài thơ mới. Những nhân vật hiện diện hôm nay chính là lịch sử tái hiện lại một thời gian khổ nhưng đầy ắp lẽ phải, niềm tin.
Bí thư chi bộ Nguyễn Mạnh Thường, người đầu tiên đặt chân lên đây, vỡ nhát cuốc khai sơn phá thạch để gieo vào xứ sở này, bây giờ đã ngoài 80 tuổi. Tôi chưa hình dung nổi vì một thời hăng say lao động và uống nhiều nước chè xanh hay sức khỏe trời ban mà vị "trưởng lão" này lại đang sung sức đến vậy. Ông Thường đôn hậu, nước da hồng hào, bộ tóc, bộ râu đều trắng như cước. Từ khi về hưu tới nay ông Thường đã trở thành ông lang quen thuộc ở Hương Sơn với những vị thuốc gia truyền được nhân dân tin dùng. Khi nhắc lại thời trai trẻ, ông Thường nhớ vanh vách từng đồi chè to đến lô chè nhỏ. Mỗi lời tâm sự của người đầu tiên "mở lối" lớp hậu duệ xứ chè càng hiểu thêm sự hy sinh thầm lặng của họ. Cả bốn bề là rừng rậm cả bốn bề lau lách, có tám chàng thanh niên trai trẻ từ Nguyễn Mạnh Thường, Ðặng Xuân Yến, Hồ Phạm Phức, Hà Huy Lân... hằng ngày phát quang bụi rậm, cùng cán bộ trắc địa cắm cọc tiêu xác định lô khoảnh để quy hoạch và canh tác. Nông trường (năm 1959) lúc đó đặt tên là Voi Bổ, thoạt nghe có gì đã được làm bạn với thú rừng hoang dã rồi. Không nói gì lên Tây Bắc "trèo dốc núi" xa xôi ở vùng thượng huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) thuở ấy lên vùng Ngã Ðôi, Rào Mắc, Voi Bổ, Chi Lời... phải là những người mang trong mình "trái tim Ðam San" dũng cảm. Dũng cảm để chấp nhận thiếu thốn trăm bề: thiếu gạo, thiếu muối, thiếu thông tin và thiếu cả tình cảm gia đình, quê hương. Dũng cảm để chống chọi với những cơn sốt rét hành hạ đến xanh nhợt làn da. Ông Thường nhắc lại "Hồi ấy voi dữ ra nhiều lắm, có bữa nó ra giẫm nát cả mấy lối chè vừa ươm. Anh em nửa đêm phải thức dậy đuổi nó mới chịu tháo lui. Lại có hôm ông Lân đang nằm ngủ tự nhiên ở dưới chân giường mình có tiếng kêu khẹt khẹt. Ông Lân gọi mấy anh em bật dậy và soi đèn pin thì chao ôi một con rắn cạp nong đang khoanh tròn...". Chuyện nơi hoang dã và những người công nhân nông trường chè Tây Sơn những ngày ấy bây giờ chép lại nghe vẫn thấy rùng mình.
Tiếng gọi nơi hoang dã từ vùng đất Tây Sơn đã lay thức hàng trăm nam nữ thanh niên tới nơi này. Bàn tay họ ươm mầm chè xanh tới đâu thì nơi đó dào lên sức sống mới. Cô thôn nữ Nguyễn Thị Xuân sinh ra bên bến nước sông La lên đây từ cái thuở tuổi "mười bảy bẻ gãy sừng trâu" bây giờ đã có cháu nội và cháu ngoại, kể rằng : Tôi và chồng tôi hồi đó bàn đến chuyện yêu đương ai cũng thẹn đỏ mặt. Nhưng chuyện khai hoang trồng chè thì làm không khi nào thấy mệt. Lúc đó ở quê tôi chưa biết cày, cứ cầm cày vài bước con trâu đen lại muốn lồng lên như con ngựa bất kham vì lưỡi cày không xới đất lên được. Học cày phải mất vài tháng mới đi đúng vòng xẻ đúng độ sâu, chồng tôi phải tốn công lắm mới huấn luyện được tôi có đường cày đảm đang...". Vừa nhắc lại những dòng hồi ức này chị Xuân vừa cười ngặt nghẽo: Nhiều bữa máy bay hắn rà thấp quá, công nhân đang làm phải vào hầm trú ẩn. Công nhân thời ấy lên tới hơn 300 người, đơn vị vừa sản xuất vừa thành lập làng chiến đấu". Phương tiện sản xuất trong thời chiến cả tập thể chỉ có vài chiếc máy rà rễ và ba máy kéo C100 của Liên Xô trợ giúp. Thiếu dầu chạy máy, những chàng thanh niên trẻ của nông trường lại hăm hở đạp xe ra Hà Nội lầm lũi trong đêm khuya để chở từng can dầu. Ðường đi hàng trăm cây số, họ đi vượt qua những đường vừa mới tắt khói bom. Chiến tranh nhưng cây chè và lòng người Tây Sơn thanh thản đến lạ lùng. Ðiều thú vị nhất mà chị Xuân nhiều lần vẫn tái hiện trong những giấc mơ đẹp đấy là những đêm trăng sáng vằng vặc ra đồi hái chè, gió nam lồng lộng thổi cả đồi chè Tây Sơn tắm trong biển trăng. Không hiểu từ trăng hay từ rễ chè bén duyên đất để nhiều đôi trai gái bén duyên tơ.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Sức mạnh nguyên tử không thể bằng sức mạnh tình yêu. Một tình yêu bao la trong sáng và cao thượng của bao nhiêu thế hệ trồng chè Tây Sơn đã tạo nên làng công nhân Tây Sơn hôm nay. Tình yêu như phép mầu kỳ diệu bắt núi phải cúi đầu, bắt đất dồn nhựa sống nuôi cây, bắt chè phải thành búp thành lá.
Một sự rất tình cờ trong chuyến đi công tác lần này tôi gặp lại người bạn thân học cùng tôi hồi phổ thông. Anh tên là Phan Văn Cầu (quê Sơn Bình, Hương Sơn) hiện làm Trưởng phòng tổ chức hành chính của cơ quan. Sau đêm ngủ tại nhà Cầu tôi càng hiểu thêm sức sống phồn thực của làng công nhân chè Tây Sơn. Một ngôi nhà ba gian thoáng đãng được cấu trúc bằng gỗ cột gỗ, trần gỗ, cửa gỗ và cái phản nằm đến lọ hoa bài trí trong nhà cũng gỗ. Tôi hỏi anh: "Bạn tìm đâu lắm gỗ để tạo dựng được ngôi nhà đẹp thế này?".
Cầu thành thật bảo: "Sống ở thành phố thì gỗ kiếm khó thật nhưng tôi sống ở rốn rừng nên tôi có cách để có gỗ". Tìm hiểu thì ra anh cũng thuộc diện người nhạy bén trong chuyện "đi tắt đón đầu". Kiểu tích lũy của anh là mua gỗ vườn của dân. Gỗ mít, gỗ xoan, gỗ sang hóp... những thứ này làm nhà vừa đẹp vừa chắc. Tất nhiên là những người làm ăn khấm khá như anh mới tính chuyện dựng nhà gỗ. Anh Cầu bảo, ở xứ sở này nhiều công nhân hiện nay xây nhà đẹp lắm, nhất là giới trẻ năng động và đổi mới tư duy. Trong câu chuyện của Cầu tôi hiểu thêm mỗi người đổi đời được tạo lại bắt đầu từ sự ăn nên làm ra của đơn vị.
Lại nhớ thời điểm năm 1986 - 1988 gia đình anh Cầu cũng như một số gia đình công nhân khác định quay gót về quê cày ruộng, bởi nghề chè khó khăn quá. Gạo không đủ ăn, con cái đi học cách trở sông đò. Trăm thứ thiếu chỉ vì sản phẩm bế tắc do chất lượng chưa bảo đảm. May sao nghề chè đổi mới phương thức làm ăn. Nông trường chè Tây Sơn được đổi tên thành Xí nghiệp chè Tây Sơn và thật sự "đất trở dạ bằng cuộc cách mạng xanh". Cách mạng về khoán sản phẩm tới người lao động. Cách mạng về thay đổi thiết bị tiên tiến. Cách mạng về phương thức quản lý tổ chức và chính sách khuyến khích ưu đãi đối với những người sản xuất. Ðơn vị trở thành một thành viên trực thuộc công ty chè Hà Tĩnh. Hành trình cho sản phẩm chè nối vòng tay với bạn bè trên thế giới được xuất phát từ "đưa sức ta mà giải phóng cho ta". Cho tới hôm nay khoán hộ vẫn được xem là phương thức tối ưu. Mỗi hộ nhận khoán từ 1 ha - 2 ha đất trồng chè thì cả xí nghiệp lên tới hàng trăm héc-ta chè. Theo anh Nguyễn Văn Nhâm cho biết: "Nghề trồng chè trên đất Tây Sơn hiện nay tuy chưa giàu nhưng không bao giờ thua lỗ. Xí nghiệp đổi mới trong khâu kỹ thuật chế biến và cung ứng các dịch vụ cho cây chè. Người sản xuất chủ động trong sản xuất, chăm sóc". Nghề trồng chè và thu hoạch chè đều theo thời vụ. Quỹ thời gian khá nhiều, đất đai dư giả nên nhà nào cũng tạo lập cuộc sống cho mình hai chân: một chân bám vào cây chè, một chân bám vào chăn nuôi. Hàng trăm gia đình Tây Sơn ai cũng có chuồng trại gia súc gia cầm. Về Tây Sơn giữa tháng ba này không chỉ được thưởng ngoạn hương vị chè thơm còn được thưởng ngoạn vẻ đẹp của đàn trâu đen láng mượt, đàn bò vàng đốm lửa đang nhai cỏ phởn phơ và những chú hươu sao ngơ ngác trổ cặp nhung hồng.
Dưới đồi chè xanh mênh mông bát ngát, bóng những hàng cây trẩu đang nở bừng hoa trắng.