* Về hưu rồi, nhưng nhà văn Chu Lai vẫn tiếp tục sống đời công chức. Đang đương kim Trưởng ban sáng tác của Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, công việc này của ông có bận rộn không?
- Tôi phải khẳng định rằng, Chu Lai không bao giờ có khái niệm về quyền lực trong văn học nghệ thuật. Đúng dịp tôi đi làm giám khảo chấm thi trong TP Hồ Chí Minh, ở Hà Nội người ta tổ chức Đại hội sân khấu. Rồi tôi được thông báo, giới sân khấu tín nhiệm bầu Chu Lai vào Ban chấp hành, Ban chấp hành lại bầu vào thường vụ. Không chối được. Chu Lai chỉ hợp với cô đơn viết lách, chứ làm phong trào không hợp. Cái ghế Trưởng ban sáng tác không tiền, không quyền không lực, trong khi sức làm tiền của tôi không đến nỗi. Thôi đành, lỡ rồi thì phải làm hết mình, làm đúng theo lối tự trọng người lính. Hội Sân khấu giờ có năm tổ chức đến bốn, năm trại viết. Chúng tôi cố gắng để kịch bản đi ra từ các trại viết này không chết, không nằm mòn mỏi trong các ngăn kéo giá lạnh.
* Thôi thì đôi khi mình cũng phải vì mọi người, để chấp nhận thực thi một bổn phận có khi đi ngược lại cá tính và nguyên tắc của chính mình?
- Cho tới nay, nhiệm kỳ của tôi đã được hai năm rưỡi, một nửa thời gian. Bấy nhiêu ngày, sáng nào tỉnh dậy tôi cũng nhủ lòng, phải nghĩ bằng ra một lý do nào đó để thoái chức cho ngọt. Nhưng anh em họ động viên, như Hà Đình Cẩn, như Sỹ Chức... vẫn gọi điện, ông mà cũng bỏ cuộc nữa thì sao. Ông để mất lòng tin của anh em à? Lính tráng quen sống vì đồng đội. Đành tặc lưỡi, cố gắng hết nhiệm kỳ đã rồi tính sau. Thế là cứ dính sâu vào. Làm, phải cố làm cho ra. Tác giả tham dự trại sáng tác, chúng tôi không chấp nhận kịch bản cũ. Xin ông chịu khó động não động tình viết cái mới, thấy chất lượng ổn Hội mới mời. Mừng là có nhiều kịch bản từ các trại viết, đã đi thẳng đến Liên hoan sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc tại Huế vừa rồi đấy.
* Lạ nhỉ, trong khi ngoài đời, xã hội luôn đau đầu với căn bệnh nghiện quyền lực, mê chức tước ở không ít người?
- Thực lòng với tôi, mê và không mê là 50, 50. Cũng thích làm quản lý đấy nhưng máu nghệ sĩ lại mạnh hơn. Ngày làm trưởng ban văn ở Tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi thỉnh thoảng lại xửng cồ ra trò với Tổng biên tập về các vấn đề chuyên môn, thẩm định bài vở. Rút cục giữ chức được 6 tháng rồi thôi. Có lẽ tôi thừa hưởng cái gen của ông bố tôi. Ông Học Phi từng làm tới Chủ tịch tỉnh lâm thời ở cái tuổi rất trẻ, 25 hay 26 gì đó, và cũng thích làm cao nữa, nhưng máu nghệ sĩ vẫn mạnh hơn, vẫn bỏ hết để làm nghệ sĩ. Tôi chỉ có năng lực chỉ huy trong chiến đấu nhưng lại không có thói quen quản lý trong thời bình. Trong chiến đấu chỉ cần bộc lộ ý chí và quyết tâm chiến thắng. Nóng nảy, cá tính, quyết đoán quyết liệt, cực đoan... thoải mái miễn là chịu chơi. Thời bình bên cạnh năng lực còn một trăm, một nghìn điều phức tạp khác, thằng lính vốn nghĩ thẳng theo đường đạn không sao quen được.
* Ông đích thực lính chiến thứ thiệt, hay chỉ là lính kiểng, lính văn nghệ?
- Hừ, thế này mà nói là hiểu Chu Lai. Tôi là lính chiến, nói theo giọng Nam Bộ là trăm phần dầu. Ngay bà xã tôi, một nữ phóng viên Việt cộng mặt trận Quảng Đà cũng không tin, khi về nghỉ, tôi phải tự tay lái xe đưa bà ấy về vùng địa bàn Bình Dương, Chiến khu Đ, Bình Phước... thấy chỗ nào, đồn nào, căn cứ nào cũng có bàn tay đặc công của tôi sờ vào, mó vào thì bà mới tin đấy. Hồi đi học tôi toàn học với những người bạn chăm chỉ, sau này ưu tú chói sáng cả như các anh Vũ Công Lập, Hoàng Vĩnh Giang, Tôn Thất Bách. Chúng tôi thường đá bóng cùng nhau ở sân Pasteur. Trong khi các bạn đều là con ngoan trò giỏi thì Chu Lai học sinh cá biệt luôn đứng ngấp nghé miệng vực của sự bị đuổi học. 14 tuổi tôi ra sông Hồng đá bóng rồi cầm đầu “quân khu” Hai Bà Trưng đánh nhau với cánh học sinh miền nam tập kết và học sinh Tân Đảo về nước ở hồ Bảy Mẫu. Có lẽ cái máu đặc công của tôi hình thành từ đó. Bị bắt, ông Học Phi phải đến bảo lãnh. Sau cú ấy tôi tỉnh ngộ. Cá tính thay đổi vỡ vụn, tôi tự nhủ mình không hợp với trường lớp. Cố hết lớp 10 tôi thi vào trường nghệ thuật quân đội. Sáu nghìn người thi toàn miền bắc, lấy có sáu người gồm cả tôi.
* Người ta nể cụ Học Phi nên nhận?
- (Cười) Cũng có nể. Nhưng tôi có năng khiếu diễn viên ra phết. Học trong trường, khi những người sau này nổi tiếng như Đức Trung, như Tạ Xuyên chỉ đóng vai lính, tôi đã đóng chủ sự trong kịch Nguyễn Văn Trỗi, hay đóng bác sĩ trong Nổi gió. Cái này thì không còn là nể ông Học Phi nữa mà phải do cá nhân tôi, đúng không. Nhưng rồi tôi thấy vô nghĩa, không hợp. Mình sức trẻ của tuổi 17, 18 dùng vai nâng được cả một bánh xe ô-tô bị sa lầy giữa đỉnh đèo gió lạnh lên mà chả để làm gì, chỉ để lát nữa lên xe mấy bạn diễn viên nữ, trong đó có cô Hồng Việt vợ anh Đức Trung sau này dúi vào tay mấy hạt lạc rang nóng. Hồng Việt ngày đó đẹp lắm, đẹp và yểu điệu thục nữ nhất đoàn. Tôi lãng mạn đa tình và có cái máu hảo hớn đại ca từ bé.
* Học cũng không hợp, làm diễn viên cũng không hợp. Vậy là đi bộ đội?
- Lúc đó, cả nước ào ào ra trận. Môi trường nghệ thuật lại cũng uốn éo ra phết, thật giả vẫn lem nhem. Tôi chán, xin đi chiến đấu. Đi bộ đội, chơi hẳn đặc công, binh chủng gian khổ bậc nhất. Huấn luyện 6 tháng ở Thanh Hóa, sự gian khổ vượt quá sức chịu đựng của con người. Người ngợm nhớp nháp ghẻ lở, đói đến ăn một lần hết veo 15 quả trứng vịt luộc. Khi ấy ông Đào Hồng Cẩm dẫn đoàn kịch Tổng cục chính trị đến biểu diễn. Ông Đào Hồng Cẩm gọi tôi lên, hỏi thế nào thỏa chí tang bồng chưa, về thôi. Về cuộc sống lại nhung lụa, về có bố có mẹ có gia đình và cô người yêu đẹp nức nở. Tôi dằn vặt khủng khiếp. 90% là muốn về rồi. Một đêm như Giăng Van Giăng (Jean Valjean) bứt óc ra để suy nghĩ. Mình nằng nặc xin đi, chích máu ăn thề xin đi. Giờ về thì nhục quá. Đám bạn nữ nhìn vào thế nào. Đành quyết định ở lại.
* Thực tế chiến tranh thì đúng là quá sức chịu đựng của một chàng trai Hà Nội quen được bao bọc, chăm sóc chu đáo như ông?
- Chiến tranh vượt quá sức chịu đựng của con người nói chung, không riêng gì tôi. Có đận tới sáu tháng trời không có một miếng thịt. Ăn chỉ rau tàu bay, củ chụp củ mài. Đồng đội tôi cúi xuống đào củ dưới lớp đất sâu, kiệt sức chết luôn, bạn bè tìm đến chỉ thấy hai bàn chân vàng khè chuồi lên mặt đất. Ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa tới lượt chôn mình. Ở rừng chỉ cần ba năm mà không chết là trong người không còn tồn tại những khái niệm cơ bản. Không nhớ về cha mẹ, không nghĩ về hậu phương, không tơ tưởng người yêu. Mù mịt. Tôi từng có lúc chịu không nổi đã nghĩ đến chuyện tự thương hoặc tự sát. Bởi trong chiến tranh, nhiều khi cái chết chịu được nhưng cái cực cái khổ thì không chịu nổi. Nhưng tự thương thì sợ nhục mà tự sát thì sợ chết thế rồi cùng với năm tháng dạn dày dần, được hơi ấm đồng đội tiếp sức, con người lại trở về thế cân bằng, chịu đựng. Lạ là khổ như thế nhưng mầm mống văn chương vẫn le lói.
* Những người lính kinh qua khói lửa đạn bom cận kề cái chết như ông, gần 40 năm sau ngày chấm dứt cuộc chiến, vẫn không dứt được ký ức chiến tranh ra khỏi đầu?
- Chiến tranh là một bi kịch ngoài sức chịu đựng sinh học của bất cứ loại người nào. Nhưng đấy lại là khoảng thời gian cao đẹp nhất, sâu lắng nhất, tinh khiết nhất của kiếp người. Con người chỉ sống trong một cảm xúc, cảm hứng duy nhất là nghĩa cả. Bản năng tồn tại của con người không có chỗ cho dục vọng đời thường vặt vãnh len vào, khái niệm vật chất tiền bạc không tồn tại. Chỉ có sống và chết. Tình người đẹp tuyệt hảo, con người yêu nhau như một thành lũy chống lại cái chết đang đến. Vậy nên còn sống trở về, bất cứ người lính nào, dù là tướng tá anh hùng đại gia hay binh nhất binh nhì, xích lô ba gác nghĩ lại, kể lại, gặp nhau đều xúc động, say đắm như nhau.
* Ông có bao giờ ao ước đổi tất cả tác phẩm của mình lấy một, chỉ một thôi nhưng là một tác phẩm kinh thiên động địa về cuộc chiến tranh mà ông đã đi qua?
- Ai chả tham vọng thế. Nhưng cái gì viết được tôi đã viết hết rồi. Tác phẩm vĩ đại đang ở phía trước chỉ là cách nói làm duyên. Nếu vĩ đại thật thì ngay bây giờ anh viết đi. Sau “Ăn mày dĩ vãng” tôi từng nghĩ, mình sẽ tổng kết chiến tranh bằng cuốn biên niên sử bốn tập, kể chuyện một gia đình phân hóa suốt từ năm 30 đến 75, viết thật kỹ càng công phu hoành tráng. Nhưng rồi không đủ lực, không đủ sức, cũng còn phải vật vã mưu sinh nữa chứ, tôi chỉ viết được “Khúc bi tráng cuối cùng” 500 trang cũng chủ đề đó nhưng nhẹ hều. Tự mình thấy mình không đủ đô, không đủ kiên nhẫn để mài giũa ra một trường thiên tiểu thuyết.
* Hiện tại ông có đang thai nghén ấp ủ tác phẩm nào không?
- Có chứ. Vẫn cảm hứng chiến tranh. Tôi đã viết xong 100 trang kịch bản điện ảnh về Thành cổ Quảng Trị. Xong điện ảnh rồi sẽ lấy đó làm chất liệu, cái lõi để chuyển thành tiểu thuyết.
- Trân trọng cảm ơn nhà văn Chu Lai.
* Chiến tranh là một bi kịch ngoài sức chịu đựng sinh học của bất cứ loại người nào. Nhưng đấy lại là khoảng thời gian cao đẹp nhất, sâu lắng nhất, tinh khiết nhất của kiếp người. Con người chỉ sống trong một cảm xúc, cảm hứng duy nhất là nghĩa cả. Bản năng tồn tại của con người không có chỗ cho dục vọng đời thường vặt vãnh len vào, khái niệm vật chất tiền bạc không tồn tại. Chỉ có sống và chết. Tình người đẹp tuyệt hảo, con người yêu nhau như một thành lũy chống lại cái chết đang đến.