Ngay cả việc chọn, cũng không lấy gì làm minh xác để bảo đảm rằng tác giả chọn như thế là tối ưu hay không. Giống như việc làm thơ, không ai dám chắc đã hiểu và kiểm soát hết thơ mình.
Theo tinh thần ấy, nhà thơ Lương Kim Phương đặt nhan đề cho tập thơ là “Sương” cũng không dám nói đã là một lựa chọn có chủ ý và toan tính. Nó là một hình ảnh. Liệu có là một ẩn dụ? Có thể thoát kén để trở thành biểu tượng?...
Tuy nhiên, cho dù có hay không tự ý thức trong tâm lý sáng tạo của tác giả, hình ảnh sương với những giọt sương, làn sương đã xuất hiện khá nhiều và trở đi trở lại trong tập. Một liệt kê nho nhỏ: gương mặt đẫm sương đêm, giọt sương chắt cho thân cành, nơi lãng đãng mù sương, sương thu buồn, sương mờ quấn phủ, giấc mơ bay cùng sương, hơi sương tỏa ra từ hồn hoang, mây và sương trắng, màn mây, chợ hoa tan sương... Ai cũng biết sương là một thể vật chất, có khi định dạng thành giọt, có khi bằng làn/màn sương, hơi sương. Cho dù ở thể dạng nào, sương bao giờ cũng bé nhỏ, tinh khiết, lắm khi khá mơ hồ, như thể không khí không dễ gì nắm bắt được. Đi suốt cả tập thơ “Sương” (và một số bài thơ khác đã đăng rải rác đây đó của tác giả), những bài/câu thơ gắn liền với sương bao giờ cũng nghiêng về yên lặng, tinh khiết, đôi chút động cựa se sẽ trên hoa cỏ, mở ra ban mai, lặn vào sẫm tối. Thì ra thơ của nữ thi sĩ này đã mang một bản mệnh sương.
Người thơ sở hữu một tâm hồn ưa tĩnh lặng, lắng nghe nội tâm, cảm nhận sự sống mơ hồ, li ti của ngoại giới bằng sợi tơ kết nối với nội giới. Phải có tâm hồn thật tế vi, mẫn cảm mới có được những trạng thái sự sống vừa xao động vừa tĩnh lặng thế này: hoa Hạ Lũng cuối vườn/đọng những giọt ban mai cánh mỏng//chẳng thấy bố cục/chỉ vẳng một hồ nước trong vắt dưới chân núi (Đọc sách của người cũ); hoặc nhường này: hình như cụm hoa chuông ngoài vườn/vừa thức giấc (K và những dạ khúc)... Trong thơ Lương Kim Phương có vô số những câu thơ vừa yên tĩnh vừa khe khẽ xao động như thế.
Ở một phía khác, sương bao giờ cũng mang đặc tính ẩm ướt, thích tìm đến nước, đến sông hồ, bờ biển, cánh rừng, hóa những cơn mưa. Thì đây: khum lại trong lòng tay/những xáo trộn thả theo cơn gió ướt/cố chỉ nhìn thấy/một đám mây bọc khung cửa (Đọc sách của người cũ). Không rõ cảm quan của người thơ luôn bén duyên với những chốn này để bắt gặp sương hay do quyến luyến sương, khát khao sương mà hay dan díu chúng? Một câu thơ tình thật đẹp, chan chứa nhục cảm: tìm đâu chiếc cốc môi anh/em hằng uống những khao khát (Ngày xa anh). Còn đây nữa: thèm nghe một tiếng chim trong đêm hạ tuần/dòng sông nhễ nhại dưới chân đồi (Trôi trong đêm rừng)... Tôi đã dừng lại đọc chậm bài “Khi vòm xoan đã tím”, nơi có những câu thơ thật khẽ khàng, đầy hương thơm và màu sắc, như một bức tranh tháng Ba xuân phai bịn rịn, hoài niệm: gió phủ đầy ang nước/từng đốm hoa li ti/xoay xoay theo những vòng tròn loang nhẹ (...)//mùa đã mùa trên cây/năm đã năm trên tóc/vốc một thời thiếu nữ trong tay/khỏa những vòng hoa xoan trên nước. Khó ai có thể cầm lòng trước những câu thơ yêu kiều như thế.
Xét rộng ra, thực thể sương như đứa con được sinh hạ từ một mối liên hệ màu nhiệm của mặt trăng, mặt trời, của ngày và đêm, của bầu trời và mặt đất, nên đặc biệt gắn bó với cây cối, hoa cỏ và sự sống sinh sôi.
Khi nữ thi sĩ cất lên những câu thơ: sâu một giấc chiêm bao/muống biển em phủ đầy thân thể anh như dây leo quấn quanh đêm (Đêm Cô Tô); về đi/chiếc cốc môi thần kỳ/chạm đến đâu cũng thành khúc nhạc/muôn nụ hoa bừng nở/rót anh vào vườn em (Ngày xa anh); quờ lên mặt/những giọt mưa mát lành/vừa thức dậy (Trôi trong đêm rừng), v.v. thì có phải chính là lúc tâm thức nguyên thủy nhất của con người đồng hiện? Tôi ngờ rằng, bản - nguyên - người đã tham gia tạo sinh nên những câu thơ như thế mà ngay chính thi sĩ cũng không hề hay biết.
Tất cả những điều vừa nói ở trên có thể chưa đủ để nói rằng hình ảnh “Sương” đã trở thành biểu tượng nghệ thuật, nơi có khả năng gợi nghĩa, sinh sôi nghĩa. Nhưng cũng đã có thể quả quyết rằng đó chính là thi cảm thi điệu mang tên Lương Kim Phương: sương tinh khiết, tĩnh lặng, ẩm ướt, hoa cỏ và sinh sôi. Với tất cả sự đa dạng và tươi mới của nó, đường viền gương mặt thi sĩ đã hiện lên theo cách riêng khác.
Nếu đọc kỹ thơ Lương Kim Phương, thấy đây đó không nhiều hình ảnh, cảnh tượng mang tính siêu thực, phi lý đi ra từ giấc mơ mộng mị, từ những ảo ảnh đột hiện. Tác giả hình dung có một ngày rất lạ, sáng thức giấc thấy mình mọc thêm nhiêu con mắt ở trên lưng, dưới gan bàn chân, ở lòng tay; và kết cục thật bất ngờ, tưởng nhiều đôi mắt giúp người ta thêm sáng thêm biết, nhưng không phải: sợ sáng hôm sau/bóng tối ngập đầy... Thì ra sáng hay tối, biết hay không không phụ thuộc vào đôi mắt trần thế, mà chủ yếu phụ thuộc vào chính con mắt tâm tưởng của mình. Ở một bài thơ khác, chiếc tất của người đàn bà bỏ quên trong một cuộc hoang đàng nào đó với người đàn ông mà mình yêu, trí tưởng tượng của nhân vật “em” được phát động và bỗng thấy: lúc mình bên nhau/chiếc tất thè lưỡi quái đản/liếm nhẹ vào gót chân/điểm huyệt những lời thề (Chiếc tất). Quả là sự im lặng của chiếc gai đâm. Những hình ảnh phi lý, kỳ dị, rờn rợn như thế rất gây ám ảnh đối với người đọc. Tuy nhiên, kiểu thi cảm này chưa phải là dòng mạch chính của thơ Lương Kim Phương.
Tác giả này ngoài đời làm cô giáo dạy văn, trong cõi văn viết cả phê bình và thơ. Cũng là người không ham công bố và kỹ chữ. Chị đang lựa chọn một lối đi riêng, lặng lẽ, ít mà tinh và độc (đáo). Thơ Lương Kim Phương mang bản mệnh của “Sương” là thế!
Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 2 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Lương Kim Phương
Khi vòm xoan đã tím
Gió phủ đầy ang nước
từng đốm hoa li ti
xoay xoay theo những vòng tròn loang nhẹ
Gió đổ hương thành cơn mưa tím
ngoài bãi giờ cỏ ấu kết dày
những cơn gió đuổi nhau còn vấp
đêm em mơ toàn mùi cỏ hăng
Sáng ngước nhìn vòm tím
chợt thảng thốt
khi tàu cau rụng trước chái nhà
Mùa đã mùa trên cây
năm đã năm trên tóc
vốc một thời thiếu nữ trong tay
khỏa những vòng hoa xoan trên nước
Trong khu vườn thư viện cổ
Tôi là một cây mâm xôi ở chốn này
giờ đơm chùm quả đỏ lựng
vẫn nhớ cội rễ mình trên núi cao
có bầy ong đến châm
cũng dặn nhỏ hãy mang mật tôi về núi
Tôi là chiếc ghế đá trên thảm cỏ xanh ngồi đọc sách
bốn mùa trôi qua tôi
tĩnh lặng
Tôi là hàng hồng leo khoe sắc
trên tường rào lối đi thư viện cổ
là khuông đèn nho nhỏ
sáng mỗi khi chiều tàn
*
Tôi ở lại trong trang sách cũ
và không còn ngạc nhiên về sự tồn tại của mình
trong khu vườn thư viện tịch liêu