Nhân dịp này, “Chiến lũy” của họa sĩ Lê Anh Vân lại ra mắt công chúng, dù ở hình thức khác với thường lệ. Bức tranh sơn dầu kích thước 110x130 cm mà họa sĩ Lê Anh Vân vẽ từ những năm 1984-1985 luôn được nhắc đến mỗi khi cần kiểm kê gia tài của mỹ thuật Việt Nam trong hành trình dằng dặc dài đi xuyên thế kỷ...
Hà Nội những ngày nồm ẩm, quán café trong mịt mù mưa bụi trên phố Thiền Quang, cách vài bước chân đi bộ là tới Đại học Mỹ thuật Việt Nam đang rộn ràng kỷ niệm sinh nhật tuổi tròn một thế kỷ, họa sĩ Lê Anh Vân xuất hiện, vẫn dáng vẻ điềm đạm lịch lãm thường nhật... Tháp tùng là vợ - cũng một cựu sinh viên của trường - một đồng nghiệp - và hơn cả - như một “quản lý”, một thư ký, một người đảm đang tất tần tật cuộc sống hằng ngày để nghệ sĩ chồng yên tâm thả hồn bay bổng. Kiểu ông muốn tìm ảnh các tác phẩm của mình lưu trong điện thoại, loay hoay một hồi rồi lại quay sang tìm vợ: “Phải bà ấy mới biết được”. Hai ông bà thường sóng đôi trong nhiều sự kiện, từ tham dự khai mạc Triển lãm “Ngày tháng này” của họa sĩ Đặng Tiến trong không gian biệt thự Pháp cũ trên phố Quang Trung cùng tới quán quen gặp gỡ đồng nghiệp, bạn bè, học trò và cả người hâm mộ... Có lẽ chính sự ấm êm yên bình gia đình đã là điểm tựa vững vàng nhất giúp họa sĩ Lê Anh Vân gần 50 năm qua, cho đến tận bây giờ, vẫn ung dung thoải mái với đam mê sáng tạo nghệ thuật và giảng dạy nghệ thuật mà không phải vướng víu những lo toan thường tình.
Chưa cần đến những trào lưu, xu hướng hay sự thúc giục của thời cuộc, ngay từ khi còn rất trẻ, họa sĩ Lê Anh Vân đã có ý thức làm mới chính mình. Thuở sinh viên, đang theo học tại Mỹ thuật Yết Kiêu, có dịp đi thực tập sáng tác dưới Hải Phòng, thành phố Cảng ầm ào trong nhịp sống công nghiệp ngay từ trước Đổi mới đã tác động sâu sắc tới nhận thức của người họa sĩ trẻ. “Đi ra thực tế, luôn luôn lấy thực tế làm cơ sở”, hòa mình vào đời sống lao động vạm vỡ, khỏe khoắn ở Hải Phòng, Lê Anh Vân bắt đầu vẽ khác đi, ngay từ những bài tập ở trường.
Đầu thập niên 80 thế kỷ 20, càng thêm nhiều các chuyến đi đến mọi miền đất nước, càng đằm mình vào hiện thực đất nước những giờ khắc âm ỉ công cuộc chuyển mình Mở cửa, tác phẩm của Lê Anh Vân càng khác hơn so với nhận thức thông thường. “Chiến lũy” năm 1984, “Đường hầm sông Đà” năm 1986... đã mang tư duy mới về hình họa, bố cục đến các mô-típ thể hiện so với nhận thức thông thường. “Chiến lũy” từng giành giải nhất Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1985. Giữa nhiều tác phẩm “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, “Chiến lũy” hiển hiện trong một dáng vẻ khác hẳn. Tương tự, “Đường hầm sông Đà” ra đời ngay trên công trường của công trình thủy điện vĩ đại bậc nhất đất nước thời điểm ấy, được các chuyên gia Liên Xô và nhiều bạn nghề, đồng nghiệp yêu thích. Không phản ánh, mô tả khí thế của công trình xây dựng thủy điện Hòa Bình theo khuôn mẫu giáo khoa, Lê Anh Vân bay bổng trong trí tưởng tượng siêu thực cùng những hình khối lập thể để biểu đạt dụng ý của mình. Nhưng cũng chính vì “mới” và nhiều ẩn dụ quá, nên tác phẩm đã gặp phải không ít sự e ngại từ các nhà quản lý, để rồi sau hơn 3 thập niên “lưu lạc”, “Đường hầm sông Đà” đã có cơ duyên quay về với tác giả, trở thành dấu ấn minh chứng cho sự thúc bách nội tại để làm mới chính mình của người nghệ sĩ ngay trong bối cảnh nghệ thuật thường được đồng phục hóa...
Từ sớm, ông đã rạch ròi được: “Có những bức tranh dù rất được rất nghiêm túc rõ ràng nhưng mới chỉ dừng lại ở tư duy minh họa hay tư duy phổ biến chứ chưa ra được tranh tạo hình, có không gian, có nghệ thuật”..., để thấy sự nghiệt ngã, gắt gao của nghệ thuật đích thực mà từng nghệ sĩ luôn phải đối diện, thậm chí sống chung.
Luôn tìm tòi, vượt lên những rào cản vốn trói buộc sự phóng khoáng nghệ thuật của một thời, họa sĩ Lê Anh Vân lại may mắn có một chuyến tu nghiệp dài ngày tại Italia. Ở cái nôi của nghệ thuật châu Âu, Lê Anh Vân càng ngộ ra được nhiều điều, tác động sâu sắc tới các tác phẩm và hơn nữa, cả trong công việc giảng dạy lẫn quản lý mà ông đảm trách. Ngay trong giai đoạn sung sức hăm hở nhất của hành trình sáng tạo nghệ thuật, họa sĩ Lê Anh Vân lại nhận lời làm công tác giảng dạy, rồi làm Hiệu phó, Hiệu trưởng Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam. Những công việc sự vụ lấy đi của ông nhiều thời gian dành cho vẽ, ngược lại tâm huyết nghệ thuật của họa sĩ Lê Anh Vân đã san sẻ phần lớn cho các thế hệ học trò. Ban ngày đi dạy, chỉ đạo các công việc của trường, tối muộn về nhà lại vẽ, những năm tháng đó, ông vẫn tạo dựng nên các thành quả được phiên bằng các huy chương, giải thưởng quan trọng. Nhiều sinh viên Mỹ thuật Yết Kiêu bây giờ, dù đã thành danh, đã có sự nghiệp riêng, vẫn nhớ về thầy Lê Anh Vân với sự quý trọng chân thành.
Họa sĩ Phạm Hà Hải chia sẻ: “Tôi tin rằng nhiều cựu sinh viên thế hệ 7X như tôi mang trong mình lòng biết ơn về tình thầy-trò đối với họa sĩ, nhà giáo Lê Anh Vân. Người thầy luôn nhiệt tâm trao đổi, gợi mở, ủng hộ và bảo vệ những tìm tòi của sinh viên, để củng cố thúc đẩy những thế hệ trẻ, nhìn thấy họ ở vóc dáng trưởng thành trong tương lai. Sau này, tôi nhớ trong một trao đổi, thầy Vân nói đại ý rằng trong sáng tác ở dạng thức nào đó, mức độ nào đó “hình thức” trở thành “nội dung”. Chia sẻ ấy mang tinh thần đồng nghiệp, tôi thấy tâm đắc bởi nó rất đúng với tâm lý thực của người sáng tác, của người nghệ sĩ. Trong môi trường nghệ thuật, những kết quả của lao động thực hành cũng như hành trình mà người thầy đã đi chính là những cuộc “nói chuyện” với những hậu sinh...”.
Ở chặng đường 100 năm đã qua, kể từ khóa học đầu tiên vào năm 1925, Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thuở trước, nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam chắc chắn có những đóng góp không nhỏ của thầy giáo-họa sĩ-Nhà giáo Nhân dân Lê Anh Vân - người kết nối được nhân tâm.
Bên trong một vẻ ngoài điềm đạm, thanh lịch là một nội tâm dữ dội, nên thành quả nghệ thuật của họa sĩ Lê Anh Vân lại mạnh mẽ lấn lướt cả cái hiều hòa cố hữu. Từ ngày về hưu, thôi các công việc hành chính, ông có thêm nhiều thời gian để vẽ. Những chắt lọc chiêm nghiệm của cả một đời học, quan sát, ngẫm ngợi được dịp bung xõa, thăng hoa không kìm nén và thành quả là những tác phẩm thanh xuân phơi phới, tạo nên sự khác biệt của một Lê Anh Vân đầy lý tính, khúc triết mà vẫn hào sảng, tươi mới, tràn đầy...