Khi di sản bước vào thị trường:

Con đường trở thành tài sản của công nghiệp văn hóa

Việt Nam đang định hướng, nền công nghiệp văn hóa trở thành một động lực trong trục tăng trưởng mới. Với kho tàng di sản phong phú, nhưng làm sao để biến di sản thật sự trở thành tài sản theo quy luật thị trường, vừa tạo ra giá trị kinh tế, vừa giữ được bản sắc, là câu chuyện không đơn giản.

“Tinh hoa Bắc Bộ” - vở thực cảnh đưa di sản phi vật thể Việt Nam vào kinh doanh văn hóa.
“Tinh hoa Bắc Bộ” - vở thực cảnh đưa di sản phi vật thể Việt Nam vào kinh doanh văn hóa.

1. Nhã nhạc cung đình là di sản phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO ghi danh. Gắn với không gian cung đình triều Nguyễn và quần thể di tích cố đô Huế, nhã nhạc hội tụ đầy đủ những yếu tố để trở thành di sản mang tính biểu tượng quốc gia, đồng thời có khả năng gắn kết trực tiếp với du lịch. Hiện nay, nhiều nghệ sĩ thuộc lực lượng biểu diễn nhã nhạc chuyên nghiệp đang sống chủ yếu bằng các suất diễn phục vụ du lịch, biểu diễn tại nhà hát, trong khu Đại Nội, tại các sự kiện văn hóa gắn với Festival Huế. Thu nhập của nghệ nhân phụ thuộc vào lịch diễn theo lượng du khách. Một nghệ nhân trẻ chia sẻ, nếu không có du lịch, thu nhập từ nhã nhạc đơn thuần không thể nuôi sống gia đình. Thực tế đó cho thấy, nhã nhạc không còn sống thuần túy bằng bảo trợ, mà đang sống bằng thị trường dù còn mang tính mùa vụ. Nhã nhạc trở thành thí dụ điển hình cho mô hình di sản kết hợp với du lịch và công nghiệp biểu diễn.

Ngược lại, ca trù là một di sản nằm trong danh sách cần bảo vệ khẩn cấp. Mang tính hàn lâm cao, không gian diễn xướng kén chọn, hình thức thưởng thức tinh tế, ca trù rất khó vận hành theo logic thị trường đại chúng. Ở Hà Nội, các điểm diễn ca trù đang duy trì ở quy mô nhỏ, suất diễn không đều. Một nữ nghệ nhân cao tuổi bộc bạch, phần lớn thu nhập của bà không đến từ biểu diễn, mà từ trợ cấp và các khoản hỗ trợ dành cho nghệ nhân. Tại Yên Nghĩa (Hà Nội), Nghệ nhân Lưu Thị Kim Liên trong nhiều năm vẫn duy trì đào tạo ca nương, nhưng số học viên theo đuổi đến cùng rất hiếm. Ca trù vì thế trở thành minh chứng rõ nhất cho giới hạn của việc kinh doanh di sản, và cho thấy vai trò không thể thay thế của Nhà nước trong bảo trợ những giá trị kén người xem.

Khác với hai trường hợp trên, đờn ca tài tử Nam Bộ là một di sản sống trong không gian cộng đồng, gắn với sinh hoạt thường nhật của người dân miệt vườn sông nước. Đờn ca tài tử không chỉ hiện diện trên sân khấu, mà còn vang lên trong những buổi sinh hoạt gia đình, đám giỗ, lễ hội, không gian du lịch. Ở Cần Thơ, đờn ca tài tử không chỉ sống trên sân khấu, mà cả trong những gian nhà nhỏ mở cửa buổi tối, nơi Nghệ nhân Ưu tú Ái Hằng ngồi giữa vòng học trò đủ mọi lứa tuổi. Có em mới mười mấy tuổi, có người đã qua nửa đời, tất cả cùng học lại cách lắng nghe một dòng nhạc sinh ra từ sông nước. Đờn ca tài tử vẫn theo chân du lịch, vào khu sinh thái, vào homestay, biểu diễn trên sông. Nhưng cũng từ du lịch, đờn ca tài tử đứng trước một ranh giới mong manh, rút ngắn cho vừa tour du lịch. Những bài bản dài, những không gian sinh hoạt nguyên vẹn dần co lại. Giữa sinh kế và giữ nghề, nghệ nhân tài tử luôn đi trên một lối hẹp.

ky-uc-hoi-an-ivivu-2.jpg
Show biểu diễn thực cảnh “Ký ức hội An”.

2. Di sản phi vật thể từng sống lặng lẽ trong ký ức của mỗi cộng đồng. Nhưng khi thế giới bước sâu vào kỷ nguyên công nghiệp văn hóa, di sản không còn chỉ là nơi trú ẩn của quá khứ, mà trở thành một trường cạnh tranh mềm giữa các quốc gia. Ở Đông Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đã sớm đưa di sản ra khỏi không gian lễ nghi để đặt nó vào guồng quay của sản xuất, thị trường và thương hiệu. Trung Quốc tổ chức Kinh kịch, Côn khúc, thư pháp, lễ hội, nghề thủ công trong một cỗ máy công nghiệp văn hóa đồ sộ, với nhà hát quốc gia, học viện, khu công nghiệp sáng tạo, thị trường biểu diễn được thiết kế chặt chẽ. Bản quyền, chuẩn mực biểu diễn, hệ thống truyền nghề là những đường gân giúp di sản vẫn giữ bản sắc giữa dòng thương mại. Hàn Quốc không giữ nghệ thuật dân gian pansori, arirang hay văn hóa muối kim chi trong tủ kính ký ức, mà thả chúng vào dòng chảy của phim ảnh, âm nhạc và du lịch mang dấu ấn Hàn ra thế giới. Di sản được cài vào công nghiệp nội dung như những mạch ngầm truyền thống, vừa giữ hồn cốt, vừa lưu thông mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu. Nhật Bản đi chậm và kỹ hơn. Kịch Noh, sân khấu Kabuki, trà đạo, ẩm thực truyền thống được bảo tồn nghiêm ngặt, song song với những thiết chế khai thác thương mại có kiểm soát. Bảo tồn và thị trường được phân tách rạch ròi nhưng liên thông. Nhà nước dựng cầu, thị trường đi qua, còn giáo dục thẩm mỹ âm thầm tạo ra những lớp khán giả nối tiếp. Khác cách đi, nhưng họ gặp nhau ở một điểm, di sản sống bằng nhu cầu của hiện tại, không chỉ bằng sự tôn kính dành cho quá khứ.

Việt Nam đang có một gia tài di sản dày lớp, phân bố dày đặc như những vết trầm tích văn hóa. Mười sáu di sản được UNESCO ghi danh, cùng hàng nghìn thực hành văn hóa đang tồn tại trong cộng đồng, cho thấy chúng ta không hề nghèo về chất liệu. Nhưng di sản Việt Nam phần nhiều vẫn sống theo nhịp của mùa hội, bừng sáng trong nghi lễ rồi lặng đi, xuất hiện trong sự kiện rồi lại im lặng hoặc biến mất. Ký ức nhiều, nhưng mạch lưu thông yếu. Di sản nhiều, nhưng thị trường mỏng, thậm chí chỉ mới manh nha.

Có thể thấy từ châu Âu tới châu Á, di sản được nhìn như một nguồn vốn biểu tượng. Các nghi lễ, lễ hội, nghệ thuật truyền thống là chất liệu bất tận cho thời trang, ẩm thực, thiết kế, nghệ thuật trình diễn và du lịch. Bản quyền, tiêu chuẩn hóa, thương hiệu và chuỗi phân phối toàn cầu là những mắt xích bảo đảm cho đời sống kinh tế của di sản mà không làm nó rỗng ruột. Từ đó, có thể thấy một quy luật, di sản chỉ thật sự có sức sống kinh tế, khi được đặt trong bối cảnh hoàn thiện của một quy trình khép kín, từ thể chế đến hạ tầng đủ mạnh, và một thị trường được nuôi dưỡng bằng giáo dục thẩm mỹ lâu dài.

bb1.jpg
“Tinh hoa Bắc Bộ” - vở thực cảnh đưa di sản phi vật thể Việt Nam vào kinh doanh văn hóa.

3. Nếu ai đã từng xem các vở thực cảnh như “Tinh hoa Bắc Bộ”, “Ký ức Hội An”… đều nhận thấy rõ, các nhà sản xuất show đã đưa di sản phi vật thể như quan họ, ca trù, bài chòi, các làn điệu dân gian… như một chìa khóa để tạo bản sắc với khán giả. Từ những bước đi đó, trong vài năm trở lại đây, di sản bắt đầu được giới văn hóa gọi một tên khác: tài sản. Những khái niệm như “kinh tế di sản”, “sức bật từ di sản” xuất hiện ngày một nhiều trong diễn ngôn chính sách. Đó là dấu hiệu của một chuyển động chậm nhưng rõ, rằng di sản không thể dựa hoàn toàn vào ngân sách, mà đã được nhìn như một nguồn lực có thể sinh sôi. Ở những đô thị di sản như Hà Nội, Hội An, Huế… sự chuyển động ấy lộ rõ qua các diễn đàn “để di sản thành tài sản”, qua việc gắn di sản với du lịch, thiết kế, dịch vụ, kinh tế số. Biểu diễn thực cảnh, tour trải nghiệm, trình chiếu công nghệ trong di tích…lần lượt xuất hiện. Di sản đã từng bước chạm vào nhu cầu tiêu dùng đương đại, dù còn dò dẫm, dè chừng.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các mô hình này chưa được tổ chức như một dòng vận hành tạo ra những giá trị kinh tế bền vững. Thị trường chưa kịp hình thành thì nhịp lễ hội đã khép, vì thế chuỗi giá trị còn rời rạc. Nhìn lại ba trường hợp nhã nhạc, ca trù và đờn ca tài tử, có thể thấy những điểm nghẽn mang tính cấu trúc của quá trình kinh tế hóa di sản. Điểm nghẽn về thể chế và thị trường là những vấn đề nặng nhất. Di sản vẫn được giữ trong chiếc khung hành chính của bảo tồn, quen với gìn giữ hơn là mở lối vào thị trường. “Kinh tế di sản” chưa có con đường riêng, phải đi nhờ lối của du lịch, sự kiện, đầu tư công. Sân khấu thưa, lịch diễn đứt đoạn, công chúng không bền, khó tích lũy thành một dòng chảy nghề nghiệp lâu dài. Điểm nghẽn then chốt là bản quyền. Di sản thuộc về cộng đồng, nhưng khi bước vào cuộc mua bán lại thiếu ranh giới sở hữu và chia sẻ lợi ích. Nghệ nhân dễ bị đẩy ra ngoài lề chuỗi giá trị, chỉ còn đứng biểu diễn cho chính di sản của mình. Công nghệ cũng là một nút thắt. Di sản đã được số hóa, nhưng phần nhiều nằm yên trong kho lưu trữ, chưa trở thành chất liệu sống cho sáng tạo, giáo dục và truyền thông. Không gian số mở rộng, nhưng lớp bảo vệ cho di sản còn mỏng. Và sâu hơn cả là điểm nghẽn con người. Nghệ nhân thì nhiều, nhưng lớp người đứng giữa để bắc cầu sang công nghiệp văn hóa lại hiếm. Thiếu nhà sản xuất, thiếu người tổ chức thị trường, thiếu những bàn tay trung gian, di sản đứng trước cánh cửa thị trường nhưng chưa có ai dắt vào.

Di sản chỉ thật sự sống khi nó có khả năng tự nuôi mình. Nhưng di sản sẽ chỉ còn là di sản khi nó vẫn thuộc về cộng đồng và giữ được phần hồn của mình. Giữa “sống” và “còn”, di sản Việt Nam đang đứng trước một thế cân bằng mong manh. Biến di sản thành tài sản không đơn thuần là bài toán khai thác, mà là bài toán phát triển. Nó đòi hỏi một sự chuyển dịch từ “quản lý di sản” sang “quản trị di sản”, từ tư duy giữ gìn sang tư duy tổ chức đời sống kinh tế của di sản. Di sản cần được đặt trong một khung thể chế mới, nơi bảo tồn và phát triển không triệt tiêu nhau, mà cùng nâng đỡ nhau.

Có thể bạn quan tâm