Nhà xuất bản liên tiếp cho tái bản. Đến 2002, nghĩa là chỉ trong vòng 3 năm đã tái bản đến lần thứ ba, mỗi lần cũng hơn nghìn cuốn, đó là chưa kể số lượng nối bản không biết bao nhiêu mà kể. Mà lạ thay, đó lại là tiểu thuyết lịch sử viết về một nhân vật xa lắc xa lơ, một nhân vật được tôn vinh nhưng cũng không ít tai tiếng trong lịch sử là Hồ Quý Ly, một ông vua trị vì đất nước không quá bốn năm với quốc hiệu Đại Ngu!
Lạ nữa là ngay sau đấy nó được "ăn" cú đúp, cùng thời gian ẵm luôn hai giải thưởng, hạng nhất cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998-2000, hạng nhất của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2000-2001!
Một hiện tượng văn chương hy hữu gây "chấn sang tâm lý" cho không ít người cầm bút đương thời mặc dù hầu hết người đọc đều thấy là thuyết phục.
Thuyết phục bởi, bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông.
Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp... được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng cùng những thăng trầm của lịch sử...
Nội dung cuốn sách và bút pháp tiểu thuyết Hồ Quý Ly đã tốn không ít giấy mực của giới lý luận phê bình. Nhưng một điều lạ trong những điều lạ mà đông đảo người đọc cứ thầm thào bàn tán hỏi han, Nguyễn Xuân Khánh là ai? Từ đâu đến? Vì hàng chục năm nay không thấy bút danh này xuất hiện trên báo chí, kể cả mấy tờ báo chuyên ngành văn chương!?
Và rồi giữa năm 2006, vào những ngày hè nóng bỏng, tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn lừng lững trên quầy sách văn học ở trung tâm văn hóa các thành phố lớn, cũng do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành, cũng dày hơn 800 trang, cũng bìa cứng rất trang trọng, cũng tác giả Nguyễn Xuân Khánh, và cũng nhận giải nhất thế loại tiểu thuyết của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006! Và thêm một lần người đọc lại muốn tìm biết về cây bút tiểu thuyết có số "hên" ấy. Ông là người thế nào mà trong vòng 5 năm gây "choáng váng" bởi hai cuốn sách dày cộm này?
Có phải vì Hồ Quý Ly cùng lúc nhận hai giải thưởng văn chương sáng giá năm 2001 mà ông phấn khích bắt tay luôn vào sáng tác Mẫu Thượng Ngàn? Nguyễn Xuân Khánh cười nhỏ nhẹ. Đấy chỉ là một yếu tố, không đáng kể lắm. Nếu ai sau khi đoạt giải gì đó lại viết hay hẳn lên thì văn chương xứ nhà đã được nhờ. Riêng với tôi hơi “cá biệt” một tý.
Có người bảo, cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly là dịp nhà văn được trả lại tên cho một nhà văn! Có lẽ thế thật. Đời tôi truân chuyên lắm nỗi. Hơn 70 năm tồn tại trên thế gian này, nay người đời mới biết có một kẻ tên là Nguyễn Xuân Khánh, cái tên cha mẹ đặt cho. Sách ra được đông đảo độc giả đón nhận là niềm hạnh phúc vô bờ, là động lực lớn lao thôi thúc tôi ngồi vào bàn viết tác phẩm mới, không để thời gian ngồi ngấm nghía hay gặm nhấm thành quả.
Năm năm ròng, nghĩa là hơn 1.600 ngày, Mẫu Thượng Ngàn mới đến được tay độc giả. Hôm đến nhà in nhận sách còn nồng mùi mực, lòng cứ xốn xang. Không biết số phận đứa con tinh thần của mình sẽ ra sao. Đêm về nhà không ngủ được, cứ miên man, miên man...
Xuân Khánh sinh năm 1932 ở một làng nghèo xã Cổ Nhuế, một vùng quê thuần nông ngoại thành Hà Nội. Gia cảnh cũng xác xơ như bà con chòm xóm. Khác chăng là người cha theo nho học nên từ nhỏ cậu bé Khánh đã biết đến chữ các bậc thánh hiền. Ham học, tính tò mò hiếu động, ham những trò chơi nhà quê của đứa mục đồng (như trò bẫy chim đã được tái hiện hẳn một chương trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn), và cũng hay mơ mộng, lãng mạn nữa. Nhà nghèo nhưng được học hành đến nơi đến chốn. Am hiểu chữ Nho, làu làu tiếng Pháp. Đến tuổi thanh niên là đi bộ đội. Rỗi ti toe viết lách văn chương.
Truyện ngắn đầu tiên ra mắt độc giả là truyện "Một đêm" năm 1957, giải nhất Văn nghệ Quân đội. Được "trên" chú ý, năm 1959 cho về làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà số 4 Lý Nam Đế cùng với những tên tuổi như Vũ Cao, Thanh Tịnh, Nguyên Ngọc, Nam Hà, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Nguyễn Ngọc Tấn... Nhà số 4 ấy đã sản sinh ra không biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ sáng giá trên văn đàn. Chính thời kỳ đó Xuân Khánh trao gửi cuộc đời cho văn chương. Năm 1959 tập truyện dày hơn 350 trang "Làng nghèo" trình làng.
Tập truyện viết về một làng quê kháng chiến ấy được các chiến hữu nhân số 4 động viên, khích lệ. Xuân Khánh lại hăm hở viết, in đều đều. Năm 1968 thì gặp "rủi ro nghề nghiệp” bởi tập truyện "Rừng sâu”. Xuân Khánh được thuyên chuyển sang địa bàn khác. Vừa làm báo, vừa dịch sách nước ngoài những tác phẩm văn học, những sách nghiên cứu lý luận nổi tiếng thế giới. Nhưng, cơm áo không đùa với khách thơ. Chỉ với cây bút thì không thể... Những năm bao cấp khốn khó, hai vợ chồng với bốn thằng con trai nghịch ngợm thuộc loại "hay ăn, chóng lớn" buộc người đàn ông lẻo khéo ấy phải ngưng bút tìm kế mưu sinh. Làm đủ nghề, thợ mộc, thợ nề, cắt tóc nữa, cả những việc lao động giản đơn miễn là có đồng tiền đủ ngày hai bữa, sống lay lắt trong cái nhà xập xệ bên chân con đê Thanh Nhàn gần Ô Đống Mác, cạnh sông Tô Lịch ngầu đen hôi thối...
Mãi đến sau này, khi lũ con đã nhớn nhao, có đứa đã đi làm đỡ đần ai bước vào thời kỳ đất nước đổi mới, đời sống dần dần cải thiện, Xuân Khánh mới bình tâm ngồi vào bàn chú tâm cho sáng tác.
Một chiều đầu thu nhưng trời vẫn oi bức, tôi tìm đến ông ở nhà riêng, số 35, ngõ 281 đường Trần Khát Chân. Cả xóm đê Thanh Nhàn xưa đã hoàn toàn đổi thay gần 20 năm nay. Con sông đen đã bị xóa sổ. Phố rộng thênh thang hai làn đường xe xuôi ngược, lại có đường riêng cho xe thô sơ nữa. Đường to nhưng ngõ nhỏ, suốt ngày ầm a vì con ngõ liên thông ra hai phố, không mấy yên tĩnh. Nhà hai tầng, nhiều những to nhỏ. Anh con trai cả tuổi hơn 40 nhưng chưa chịu lấy vợ, ở chung với ông bà.
Phòng văn của ông trên tầng hai riêng biệt, đến khách quen cũng không được bước vào. Đấy là thế giới riêng của nhà văn. Sáng sáng là thời giờ ông chuyên tâm cho viết lách, không có lực nào có thể bẩy ông ra khỏi bàn. Viết đều đều cho tới quá ngọ mới ra khỏi phòng. Chiều chiều tra cứu tư liệu, đọc sách hoặc gặp bạn hữu, đi đó đi đây nếu cần thiết. Về đêm lại cặm cụi trên trang viết. Có nghỉ cũng phải có tập giấy, cây bút kề bên, phòng lúc có ý nghĩ, ý tưởng nào lóe sáng thì ngồi bật dậy ghi ngay. Đến sáng hôm sau chỉnh sửa...
Nếu cuốn Hồ Quý Ly viết về giai đoạn lịch sử cách đây hơn 600 năm, về một ông vua cầm quyền vẻn vẹn có bốn năm nước Đại Ngu (nghĩa là Đại Yên) mà chẳng bình yên chút nào. Đề tài này, nhân vật kỳ bí này Xuân Khánh ngẫm nghĩ gần 15 năm. Cuối đông năm 1999 mới viết xong.
Còn Mẫu Thượng Ngàn đặt bút trang bản thảo đầu tiên vào mùa xuân 2001 đến mùa thu 2005 hoàn thành. Đây là cuốn tiểu thuyết về văn hóa phong tục Việt Nam được thể hiện qua cuộc sống và những người dân ở một làng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trong bối cảnh thực dân Pháp sang xâm lược Việt Nam. Tôi hỏi, sao ông quê ở ngoại thành Hà Nội, làng Cổ Nhuế (trong sách lấy tên là Cổ Đình), mà khi viết ông lại cho chuyển cư lên trung du? Xuân Khánh cười lớn. Có cho lên vùng bán sơn địa thì mới có đồn điền chớ. Có đồn điền mới ra cái anh Tây thực dân. Còn ở đồng bằng rặt lúa là lúa thì ra cái gì. Lập đồn điền là một kế sách trong công cuộc khai hóa, khai sáng dân bản địa của người Phú Lãng Sa đối với xứ bảo hộ đó!
Mẫu Thượng Ngàn cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử xã hội về Hà Nội cuối thế kỷ 19, gần với việc người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, việc xây Nhà thờ Lớn, cuộc chiến của người Pháp với quân Cờ Đen... Rồi là câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong khung cảnh một làng cổ. Đó là tình yêu vừa bao dung, vừa mãnh liệt của những người phụ nữ với bao nỗi đắng cay, đầy chất phồn thực, bi hài hòa quyện với mộng mơ và cao thượng...
Nhà văn hỏi tôi, Vũ Hà đã đọc, anh thích những chương nào? Tôi đã đọc mải miết liền trong ba đêm trắng. Trong 15 chương, tôi thích nhất chương Con chim cu cườm. Run rẩy. Phấn hứng. Hồi hộp không khác gì tâm trạng thằng cu Điền theo chú Trịnh Huyền đi bẫy chim. Xuân Khánh cười khoái trá. Đó chính là tôi hồi con nít đó! Hoàn toàn là thật đấy.
Thế còn những chương nào thú vị? À, chương bà ba Váy kể chuyện, nhiều chi tiết lý thú lắm, chương viết về bệnh dịch tả đọc sợ ơi là sợ, có lẽ văn chương nước nhà chưa có cuốn sách nào mô tả về cái chuyện khủng khiếp này. Xuân Khánh bỗng lặng đi như chợt trở về thời quá vãng.
Ông nói: Chuyện ấy đã từng xảy ra ở quê tôi. Chính tôi là người được chứng kiến, là người trong cuộc. Tôi đã được người lớn giao cho công việc ngồi canh quan tài một đêm, sợ chó mèo nhảy qua. Cũng sợ chết khiếp ấy chứ!
Cũng xin thú thật với anh Xuân Khánh, những trang viết về tình dục, chuyện đàn ông đàn bà với nhau, cũng hết sức lôi cuốn. Lôi cuốn bởi nó toát lên phong vị rất phương Đông, rất Việt nữa. Mãnh liệt, phồn thực nhưng cũng rất bao dung, đằm thắm. Nhưng xin được hỏi nhà văn, cuộc tình nào trong tiểu thuyết được ngòi bút chăm chút nhất?
Anh nói thật thì tôi cũng thú thật. Mỗi phụ nữ trong truyện đều gắn đến một hình bóng ngoài đời. Bà Ngát (bà Tổ Cô), bà Mùi, bà ba Váy, rồi cô Nhu, cô Hoa... mỗi người một vẻ, mỗi người có một người đàn ông yêu dấu của riêng mình, nhưng có lẽ "cuộc tình" cay đắng nhất, khốn khó nhất mà cũng "thần thánh" nhất là cái phút bất ngờ giữa ông hộ Hiếu với thím ba Pháo - con mẹ mõ làng Cổ Đình. Cả đời, hai thân phận khốn nạn nhất ấy chỉ xảy ra đúng có một lần, những giây phút thần tiên... Đứa con gái của họ là trời cho đấy chứ. Cô bé Hoa đẹp như một đóa hoa rực rỡ giữa xã hội bùn lầy sẽ có thân phận khác hẳn bậc sinh thành...
Chợt nhớ câu của nhà phê bình lỗi lạc người Nga Biêlinxki: "Tiểu thuyết là sự phản ánh nên thơ đời sống xã hội... Bên trong nó quan trọng là sự huyền bí của trái tim con người, sự tham gia của con người và những quan hệ của nó với tất cả mối quan hệ với cộng đồng, với thế giới chung quanh". Và gì nữa, về nhân vật tiểu thuyết mà Biêlinxki nói nhỉ. À, "nhân vật là những người lạ quen biết"! Những điều ấy cứ ám ảnh tâm thức tôi khi gấp trang cuối cùng cuốn Mẫu Thượng Ngàn, đeo đuổi tôi khi chia tay với tác giả của nó - nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Trong ngõ nhỏ ra đường Trần Khát Chân thênh thang.