Về xứ Quảng tìm dấu chân Đức Phật

Bài 1: Phật viện Đồng Dương và kinh thành bị lãng quên

Hơn trăm năm trước, vào thời thuộc Pháp, lần đầu tiên viên công sứ Pháp Charles Lemire và nhà khảo cổ của viện Viễn Đông Bác Cổ Henri Parmentier đã làm nên một việc lớn khi thành lập Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Champa (Cổ Viện Chàm) tại Đà Nẵng, với những hiện vật lưu giữ tinh hoa đã tồn tại hàng nghìn năm trên mảnh đất này.

Phòng trưng bày Đồng Dương tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.
Phòng trưng bày Đồng Dương tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Không chỉ khách phương xa mà ngay cả những người dân bản địa mỗi lần đến với Cổ Viện Chàm là lại một lần mở thêm được những ô khóa bí mật về văn hóa, lịch sử của dân tộc, của cộng đồng và của ngay chính bản thân mình.

Sử nhà Phật trong hào quang cổ vật

Chúng tôi đến thăm Cổ Viện Chàm, nơi ngày nay được gọi là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, theo lời giới thiệu về một cổ vật đã trở thành bảo vật quốc gia. Đó là bức tượng Bồ tát Tara bằng đồng, được phát hiện tại khu vực di tích Đồng Dương, thành phố Đà Nẵng (thuộc xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cũ), từ năm 1978. Phật giáo Tây Tạng gọi vị bồ tát này là Tara, nghĩa là Thần Ngôi Sao, là hiện thân của năng lượng ánh sáng. Thần Tara là người mẹ giàu lòng thương yêu và cũng là người bảo vệ kiên cường, mạnh mẽ, luôn chinh phục những khó khăn, trở ngại.

ndo_br_tuong-tara.jpg
Bảo vật quốc gia Tượng Bồ tát Tara tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Thế kỷ thứ IX, một vương triều mới xuất hiện tại vương quốc Champa cổ, là vùng đất thuộc xã Đồng Dương, thành phố Đà Nẵng, ngày nay: Vương triều Indrapura, do vua Indravarman II sáng lập. Cùng với sự ra đời của triều đại này là sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo, một tôn giáo chiếm ưu thế tuyệt đối ở Champa thay thế cho Siva giáo (một nhánh của Hindu giáo) trước đó. Là một tín đồ Phật giáo và tự xem mình đã được đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ tát Lokesvara, vua Indravarman II đã tự đặt cho mình một tên gọi khác là Lakmindra Bhumisvara Gravasvamin và cho xây dựng Phật viện Đồng Dương để thờ Bồ tát Laksmindra-Lokesvara. Vị trí này cách Trà Kiệu 20km về phía nam, chính là khu vực thuộc xã Đồng Dương ngày nay.

Từ ngã tư Hà Lam, xã Thăng Bình, thành phố Đà Nẵng, trên quốc lộ 1A, xe chúng tôi rẽ sang quốc lộ 14E, đi khoảng 12km, rồi theo đường làng chừng 400m là đã đến Đồng Dương. Đường làng bình yên. Hỏi thăm thì biết làng này toàn người họ Trà - là dòng tộc Chăm xưa, bị nhà Nguyễn bắt đổi thành họ Trà để dễ bề quản lý. Ông Trà Tấn Tôn, một trưởng nhánh họ Trà ở Đồng Dương, chỉ cho chúng tôi tấm bia đá khắc ghi lịch sử. Nội dung văn bia viết rằng: Phật viện Đồng Dương được đức vua Jaya Indravarman II xây dựng để cúng dường cho Laksmindra-Lokesvara, là đấng bồ-tát hộ trì cho vương triều Indrapura, trị vì vương quốc Chămpa từ năm 875 đến năm 981. Đây là phức hợp kiến trúc đền-tháp Phật giáo to lớn và quan trọng nhất của vương quốc Champa.

ndo_br_anh-bai-1.jpg
Di tích Phật viện Đồng Dương, xã Đồng Dương, thành phố Đà Nẵng.

Chỉ cách Từ đường tộc Trà vài chục bước chân là đã đến khuôn viên Phật viện. Từ xa đã thấy thấp thoáng những bụi cỏ mọc trên chóp Tháp Sáng như những chỏm tóc của người khổng lồ. Hiện nay, tất cả các đền tháp Champa còn lưu dấu tại miền trung đều là những đền tháp Hindu giáo.

Tuy nhiên, những cứ liệu văn khắc và khai quật khảo cổ lại cho thấy Phật giáo đã có thời kỳ phát triển mạnh mẽ nơi đây bên cạnh Hindu giáo. Năm 1902, nhà khảo cổ học người Pháp H.Partmentier đã tiến hành khai quật Đồng Dương, phát hiện quần thể kiến trúc lớn vào loại bậc nhất và cũng độc đáo nhất của Champa ở Đông Nam Á. Chỉ đến lúc này, người ta mới được biết những ngôi tháp cổ ở Đồng Dương là di tích của một tu viện Phật giáo trong lòng kinh đô Indrapura.

Theo khảo tả của Parmentier, Phật viện này có 3 tổ hợp chính trải rộng trên một chiều dài 1.300m, theo trục đông-tây, được phân bố thành 3 khu vuông vức, bao gồm: Phật đường chính của hoàng gia và những đền-tháp phụ bao quanh; khu tiền đình hình chữ nhật dùng để chuẩn bị nghi lễ như múa thiêng, hát thiêng, bày lễ vật…; khu tu viện là nơi hành lễ của chư tăng và các tín đồ.

Một số hiện vật thu thập được từ Phật viện Đồng Dương đã được chuyển về Đà Nẵng từ năm 1935 và được trưng bày tại Cổ viện Chàm, nay là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Trong số đó, đặc biệt có một đài thờ lớn với các mảng điêu khắc về cuộc đời Đức Phật Thích Ca. Đó chính là Đài thờ Đồng Dương, được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận là bảo vật quốc gia ngày 24/12/2018. Khách tham quan bảo tàng ngày nay sẽ vô cùng thích thú khi được chiêm ngưỡng điêu khắc "sử nhà Phật" lung linh trên thớ đá nghìn năm.

ndo_br_bao-tang-cham-2.jpg
Đài thờ Đồng Dương hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Đó là những hình ảnh về cuộc đời Đức Phật Thích Ca. Là cảnh hoàng hậu Maya sinh thái tử Tất Đạt Đa trong vườn Lâm Tỳ Ni, cảnh thái tử cắt tóc và thay y phục, cảnh người hầu Xa-nặc và con ngựa Kiền-trắc quay về kinh thành sau khi Phật Thích Ca vào rừng tu hành...

Tại ngôi tháp cổng ở hướng đông của Phật viện Đồng Dương, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 3 pho tượng thần hộ pháp Dharmapala có kích thước bề thế đứng trên những con thú thiêng như thủy quái Makara, trâu, sư tử, gấu... Chiều kích đồ sộ và chất thẩm mỹ đỉnh cao của các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương đã bộc lộ một kỹ thuật chế tác điêu luyện mà các giai đoạn nghệ thuật trước đó chưa đạt được. Nổi bật nhất là tượng Bồ tát Tara bằng đồng cao hơn 1m, được xem là kiệt tác nghệ thuật trong điêu khắc Chămpa.

ndo_br_tuong-tu-dong-tam.jpg
Họa tiết điêu khắc cảnh Đức Phật được sinh ra trong vườn Lâm Tỳ Ni trên đài thờ Đồng Dương.

Tượng nữ thần Tara uy nghi được đặt trang trọng tại Cổ Viện Chàm. Chi tiết hai bàn tay nữ thần nâng nhẹ đóa sen và con ốc biển gây tò mò cho những vị khách chiêm ngưỡng cổ vật. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra lời giải thích: Sở dĩ Tara cầm hoa sen vì hoa sen tượng trưng cho hương sắc tinh khiết, tình yêu thương, trí tuệ, chứa đựng cả thiên đường và trần thế, mặt trời và mặt trăng, vẻ đẹp và sự sinh sôi nảy nở. Con ốc biển tượng trưng cho sự quán xuyến mọi âm thanh thế gian, sướng và khổ, vui và buồn, là vũ khí đầy quyền năng để thanh lọc, ban phát và tập hợp niềm hy vọng của muôn loài.

Hai vật cầm tay rất đặc thù của Laksmindra-Lokesvara, thể hiện truyền thống Mật tông của Phật giáo Champa, thuộc tông phái Kim Cương Thừa, xuất phát từ miền Đông Ấn, được truyền bá đến Đông Nam Á theo con đường hải thương và rất phổ biến tại khu vực này từ thế kỷ thứ VIII trở đi.

Hoàng cung Indrapura xưa - kinh thành bị lãng quên

Trong câu chuyện kể của người già ở Đồng Dương và những cứ liệu khoa học khảo cổ của người Pháp để lại có một sự trùng khớp đặc biệt. Đó là khu vực Đồng Dương ngày nay không chỉ có 1 di tích duy nhất là Phật viện hoàng gia mà xung quanh vùng này chính là hoàng cung xưa của vương triều Indravarman II. Các nhà khoa học cũng ghi nhận: Con đường dài 763m chạy từ Phật viện về hướng đông, tới một thung lũng hình chữ nhật dài 300m, rộng 240m, là hoàng cung của kinh đô Indrapura xưa. Vị trí này ngày nay gọi là Ao Vuông, nằm ngay sau trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Định Bắc cũ. Dân gian truyền lại rằng ao nước vuông vức này chính là dấu vết địa điểm lấy đất nung gạch để xây dựng kinh thành xưa.

Từ các sử liệu cũ có thể thấy: Vương triều Indravarman II do ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, vua được coi như hóa thân của thần linh trên mặt đất. Do vậy, bao giờ trong một đô thành cũng hiện diện 2 khu vực quan trọng nhất và mang ý nghĩa biểu tượng nhất là khu cung điện và khu đền thờ. Phật viện Đồng Dương phải luôn gắn với Hoàng cung là như vậy. Phật viện Đồng Dương mặc dù là Di tích cấp quốc gia đặc biệt nhưng gần như đang là phế tích, hiện chỉ còn tháp Sáng cũng đang xuống cấp nặng, nhiều nguy cơ sụp đổ.

Chỉ cách Phật viện không xa, cung điện Đồng Dương dẫu chỉ còn vài dấu vết nhưng cũng chưa được đưa vào diện nghiên cứu, quản lý cùng với Phật viện Đồng Dương như là một di tích song hành nhiều ý nghĩa. Dường như nó đã bị lãng quên, dù người tộc Trà Đồng Dương luôn tự hào rằng mình là hậu duệ của những cư dân gốc nơi kinh thành Indrapura hơn nghìn năm trước.

Vĩ thanh

Chia tay Đồng Dương, chúng tôi lạc vào một lễ hội bên sông. Hằng năm, khi làn gió nhẹ lay hoa bắp nở tím đôi bờ sông Thu và những cánh đồng lúa xanh mướt bắt đầu làm đòng, người dân vùng ven sông xứ Quảng lại náo nức lễ hội tưởng nhớ “Bà Mẹ xứ sở”, một thần nữ được truyền gọi theo tên của dòng sông mẹ - bà Thu Bồn.

Truyền thuyết về bà Thu Bồn được kể theo nhiều cách khác nhau trong dân gian với rất nhiều dị bản. Khi thì bà là một nàng công chúa xinh đẹp của Vua Mây, có khi lại là một nữ tướng Champa uy nghi, khí phách. Trong những truyền thuyết ấy, dù là công chúa hay nữ tướng, là người Việt hay Chăm thì đều có một điểm chung là bà đều hy sinh trong chiến trận, xác trôi dạt trên dòng Thu Bồn và được người dân nơi đây đưa về chôn cất. Từ đó, bà hiển linh, cứu giúp dân lành trong muôn cơn bĩ cực: thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo... và được người dân suy tôn, lập đền thờ chiêm bái.

Lễ vật của đoàn rước nước từ sông Thu lên Lăng bà bao giờ cũng có tháp bánh Gừng cùng trầu cau, hoa quả. Người dân Thu Bồn dường như đã quá quen với hương vị món bánh Gừng có nguồn gốc Champa. Người Chăm gọi bánh này là bánh Ginrong Laya, là bánh thiêng, làm từ bột nếp, gừng và đường, tượng trưng cho niềm tin sắt son, chung thủy. Đây là món ăn không thể thiếu trong các dịp lễ trọng của người Chăm xưa.

Nhìn các bà, các chị nền nã trong tà áo hội thời hiện đại, ríu rít giọng Quảng, cung kính từng mẻ bánh Ginrong Laya dâng Bà Mẹ xứ sở, khách phương xa lòng bỗng hân hoan thấy mình như đang trở lại quê nhà. Mà nhà mình là đây, chứ còn đâu xa nữa!!! Trăm năm, nghìn năm trôi qua như cái chớp mắt của vũ trụ, đã qua bao cuộc bể dâu, dâu bể, bao cuộc di dân, hòa huyết… Thành quách, đền đài rồi cũng thành tro bụi, chỉ còn lại bên dòng sông mẹ những đứa con cùng chung dòng sữa…

Có thể bạn quan tâm