Ít người biết trước khi trở thành nhà văn quân đội, Nguyễn Thị Như Trang công tác ở ngành thương nghiệp, sớm yêu văn chương mà bước vào nghiệp viết với niềm say mê hiếm thấy. Bằng vốn sống của một cán bộ thương nghiệp, bà đã viết vở kịch ngắn Ông cửa hàng trưởng (1964) và được trao giải thưởng văn học đầu tiên của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Thành công ấy đưa bà trở thành học viên lớp Viết văn trẻ khóa II (1965-1966) của Hội Nhà văn Việt Nam. Ra trường, bà về làm phóng viên báo Quân khu III (1966-1969) và từ đấy Nguyễn Thị Như Trang thật sự vừa cầm bút vừa cầm súng lăn lộn trên nhiều chiến trường. Thân gái dặm trường, chỉ với chiếc xe đạp, nhà văn, nhà báo Nguyễn Thị Như Trang xông vào những nơi ác liệt để lấy tin, viết bài ca ngợi và khẳng định ý chí quật khởi của quân dân khu III anh hùng.
Giữa năm 1969, bà chuyển về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội thì cuối năm 1970 đã xung phong vào Trường Sơn với quan niệm nhà văn phải “sống đã rồi hãy viết”. Chỉ có sống nơi chiến trường mới có thể viết được những trang văn lay động phản ánh đúng cuộc sống, chiến đấu của người chiến sĩ. 27 năm công tác và viết văn tại “Nhà số 4” (cách gọi trìu mến của giới nhà văn dành cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội), nếu nói về vốn sống thì ngay cả các nam nhà văn quân đội cũng phải khâm phục bà. Sớm có mặt tại chiến trường Cam-pu-chia, Mặt trận 559 từ những ngày đầu, năm 1979 bà lại có mặt ở biên giới phía bắc cùng đồng đội tham gia chiến đấu chống lại quân bành trướng. Hàng chục tập truyện ngắn và tiểu thuyết lấy bối cảnh và cảm hứng sử thi từ cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc lần lượt ra đời. Những trang văn của Nguyễn Thị Như Trang là bức tranh đầy khí thế hào hùng của quân đội nhưng vẫn mang đậm tâm hồn yêu thương của người phụ nữ cầm bút. Đó không chỉ là lịch sử hay văn chương mà còn là mỹ học anh hùng, cao cả và bi tráng.
Nhưng nếu nói về phong cách đặc trưng trong văn Nguyễn Thị Như Trang thì phải kể đến tiểu thuyết Đứa con bị ruồng bỏ (1995). Hình như vốn sống, tâm huyết và cá tính văn chương ở bà đã dồn tụ hết vào đây. Nó mang rõ dấu ấn đời người và đời văn tác giả: trầm tĩnh đằm sâu mà ấm nóng thiết tha, nồng nàn yêu thương mà sâu sắc quyết liệt. Đó là câu chuyện về một người mẹ phải vượt qua bi kịch khủng khiếp để quyết định số phận của đứa con trai đầy tội ác, làm nên những đối thoại đa thanh về đời sống đậm chất thế sự, là tiếng chuông cảnh tỉnh tình trạng suy thoái đạo đức và đạo lý, trách nhiệm của con người với tương lai... Tôi đã hơn một lần nói với bà, đó là tác phẩm để đời, không chỉ là bước ngoặt trong bút pháp mà còn là dấu ấn một thời văn học đổi mới của tác giả.
Ngoài đời bà sống hiền lành, nhỏ nhẹ, dành sự quan tâm trìu mến cho mọi người, nhưng bên trong là một tâm hồn trĩu nặng tình đời, tình người. Bà sống thiên về nội tâm, hay suy nghĩ và cả nghĩ. Tác phẩm của bà cũng vậy, dù viết ở thời nào cũng thường gợi lên ở độc giả những suy tư về lẽ đời. Tôi cứ nghĩ, cho dù đã rời cõi tạm về miền cực lạc, Nguyễn Thị Như Trang vẫn chưa lúc nào thôi day dứt về sứ mệnh con người, điều mà khi còn sống bà đã thể hiện một cách tâm huyết và tinh tế trên những trang văn.
Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang (1939 - 2016), đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng ba; Huân chương Chiến công hạng nhì. Bà được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012 cho cụm tác phẩm Màu tím hoa mua (tập truyện ngắn, 1969), Khoảng sáng trong rừng (tiểu thuyết, 1979) cùng nhiều giải thưởng văn học khác.