Người lính già đầu bạc kể chuyện Tây Tiến

Nguyễn Bằng, Hà Hảo, đại đội 130, tiểu đoàn 150, trung đoàn 52 Tây Tiến. Chụp khoảng năm 1948 (ảnh do gia đình Nguyễn
Nguyễn Bằng, Hà Hảo, đại đội 130, tiểu đoàn 150, trung đoàn 52 Tây Tiến. Chụp khoảng năm 1948 (ảnh do gia đình Nguyễn

Tại nghĩa trang liệt sĩ Mai Châu, Hòa Bình vẫn còn 135 ngôi mộ liệt sĩ vô danh thời chống Pháp, trong đó phần lớn là bộ đội Tây Tiến. Còn bao nhiêu liệt sĩ nữa vẫn nằm lại trong rừng suốt mấy chục năm nay, mà máu thịt của các anh đã hòa quyện vào đất đai, sông suối của Tổ quốc?

Chuyện văn, chuyện đời

Biên chế trung đoàn là bé nhỏ. Nhưng nhiệm vụ bẻ gãy âm mưu thâm độc của thực dân Pháp lập "xứ Mường, xứ Thái tự trị" khống chế một vùng biên ải chiến lược từ Lai Châu đến Thanh-Nghệ nhằm uy hiếp hậu phương ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, lại không hề nhỏ.

Trong thư gửi bộ đội Tây Tiến ngày 1-2-1947, Ðại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp tiên liệu: "Trên con đường tiến về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một bóng người, thủy thổ không quen thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước độc ma thiêng. Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hy sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí...".

Ðã có một Ðài tưởng niệm liệt sĩ Tây Tiến đặt tại Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình ngày 20-12-1990 - do chính quyền địa phương xây dựng với hình tượng lưỡi mác vút cao, chiếc cồng và cờ đỏ sao vàng - nơi chỉ trong một thời gian ngắn, gần 200 thương bệnh binh Tây Tiến đã vĩnh viễn nằm trong sự tiếc thương của đồng đội và đồng bào các dân tộc. Ðã có một Bia "Chiến tích của bộ đội Tây Tiến và quân dân Mai Châu trong kháng chiến chống thực dân Pháp" được chính quyền địa phương dựng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Mai Châu ngày 22-12-1993.

Nhưng còn đó nỗi canh cánh "rải rác biên cương mồ viễn xứ". Ông Lâm kể: "Dựng bia tưởng niệm liệt sĩ ở Mộc Châu là tâm ước của chúng tôi suốt 15 năm nay. Không chỉ vì chúng tôi là bộ đội Tây Tiến mà đó còn là trách nhiệm với lịch sử và văn hóa. Kể từ khi Tây Tiến được đưa vào sách giáo khoa phổ thông, chúng tôi hay được mời đi nói chuyện. Năm 2004, đến nói chuyện ở trường trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội, tôi gặp một cháu, hỏi đi đâu, cháu bảo: "Cháu đi nghe Tây Tiến" - "Cháu học lớp mấy" - "Cháu lớp 10" - "Lớp 10 đã học đâu?" - "Lớp 12 mới học, nhưng cháu thấy có giảng Tây Tiến thì muốn đi nghe". Ông bảo: "Tôi cảm động vì bọn trẻ còn muốn hiểu quá khứ".

Người lính già đầu bạc kể mãi chuyện Tây Tiến không chán. Ông biết "bài văn lạ" - chuyện văn mà đáng nghĩ, bởi đó là chuyện đời. Nhưng ông tin thế hệ trẻ sẽ không quay lưng lại lịch sử. "Vấn đề là người lớn, các thầy cô giáo truyền đạt ra sao?" - "Là thế hệ trước của những bạn trẻ viết ra "bài văn lạ" ấy - ông hỏi tôi - Các cậu có chối bỏ Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo chỉ vì không sống ở thời đó không?

Lev Tolstoi viết Chiến tranh và Hòa bình khi trận Borodino đã lùi sâu vào quá khứ. Nhưng nó vẫn là kiệt tác. Rồi sau Lev Tolstoi, những nhà điện ảnh Liên Xô, Pháp, Italy... lại dựng nên những tác phẩm xuất sắc của thời đại họ từ chính nền móng văn học kinh điển đó cũng chỉ bởi không hề nghĩ rằng họ không sống vào thời Lev Tolstoi, hay thời Napoleon đại bại trước sức mạnh của dân tộc Nga".

Hồ sơ của ông đủ tư liệu, từ hồi ức của tướng Hoàng Sâm, Khu trưởng CK 2, Chỉ huy mặt trận Tây Tiến, bài, ảnh tư liệu của chỉ huy, chiến binh Tây Tiến, lãnh đạo địa phuơng... các thời kỳ cho đến những "tên núi tên sông trong Tây Tiến mỗi lần đọc lên còn muốn khóc".

Và ý tưởng về một nhà bia tưởng niệm Tây Tiến đã được lãnh đạo  huyện Mộc  Châu hoan nghênh, đồng ý cho đặt bia trên đồi Nà Bó của thị trấn Mộc Châu, dự kiến quy hoạch thị trấn Mộc Châu đặt tên nhánh đường phía tây là "đường Tây Tiến".

Tháng 5-2005, tấm bia đá tạc nguyên khối cao 1,2 m, rộng 80 cm, dày 15 cm có khắc trích đoạn thư của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp gửi bộ đội Tây Tiến năm 1947 và chữ ký của Ðại tướng do gia đình cựu chiến binh Nguyễn Bằng và Lê Hùng Lâm cúng tiến đã hoàn thành. Cùng với nó, một lư hương bằng đá của gia đình cựu chiến binh Phạm Ngọc Khuê cúng tiến đã được chở lên Mộc Châu.

Ông Lâm nói, thêm vào đó, gia đình liệt sĩ, đại đội trưởng Tây Tiến Tuấn Sơn cũng cúng tiến hai chiếc ghế đá và có thể sẽ thêm một đèn đá nữa. "Vì hiện mới có một chiếc đèn đá của tôi. Chúng tôi định đặt bốn chiếc bốn góc, giờ mới có một. Ðành làm dần thôi. Anh em còn khó khăn. Huyện đồng ý là quý lắm rồi. Chúng tôi rất mong ngọn đồi Tây Tiến này sẽ là nơi di tích lịch sử văn hóa, nơi giảng văn sinh động cho các em, nơi học lịch sử bằng hiện vật, hình ảnh".

"Tiếng cồng quân y" và ý nghĩa của một biểu tượng

Ðó là tên một bản nhạc nay chưa tìm lại được bản gốc, chỉ còn lời, nói về một thời thương đau, bi tráng. Tác giả của nó là liệt sĩ, đại đội trưởng Như Trang, tiểu đoàn 150 Trung đoàn Tây Tiến, từng bị sốt rét điều trị ở Châu Trang - nơi gần 200 thương bệnh binh Tây Tiến đã ra đi. Ở đó có nhà bệnh, nhà thuốc, lại cả nhà cho người hấp hối. Có chai thuốc tím rửa vết thương, thuốc đỏ chữa ghẻ lở. Lại có chai thuốc vàng, mỗi chai pha một viên ký ninh. Chai thuốc trắng pha một viên aspirin, mỗi người chỉ được một chén sau mỗi lần khám.

Ðồng bào có thói quen mới: mỗi khi có một anh bộ đội qua đời, ông trưởng xóm đánh ba hồi cồng báo cho dân tập họp đến chôn cất. Người đào huyệt, người tìm chiếu bọc, người lấy lạt tre buộc.

Theo bác sĩ Kiều Thanh Thôn khi đó là cứu thương Tây Tiến, câu "áo bào thay chiếu anh về đất" của Quang Dũng là nói chuyện ngoài chiến địa. Còn ở Châu Trang, đồng bào đập nứa dập bọc lại đem chôn. Có khi vừa chôn xong người này lại nghe tiếng cồng khác nổi lên. Chiến sĩ nghe vừa thương đồng đội, vừa uất hận vì nỗi niềm báo quốc chưa thành, chí trai chưa thỏa.

Và tiếng cồng đã là một kỷ niệm đau đớn gắn với nghĩa quân dân ruột thịt. Tiếng cồng quân y đã ra đời trong hoàn cảnh đó:

Anh nghe thấy những hồi cồng rền rĩ
Tiếng cồng khua rừng nơi quân y
Cồng rên cây lắng run run
Tiếng cồng vang núi đá âm u rền xa
Cồng âm y từng đợt tiếng lâm ly
Tới tai người chiến sĩ đang ốm yếu ở xa nhà
Lòng chàng run lên cồng đưa một đồng chí qua đời tới nơi ngàn xa
Chàng chưa đáng chết, nước non chưa yên
Nhưng bệnh rừng ác độc mang chàng đi
Mà nước non đang chờ
Mà chí trai còn căm uất xâm lăng...

                                                        (Như Trang)

Trong bài viết Tấm lòng Lạc Sơn, ông Lê Hùng Lâm đã kể lại biểu tượng cái cồng trên Ðài Tưởng niệm liệt sĩ Tây Tiến là ý tưởng của Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sáng tạo ra khi thấy cụ chủ nhà Bùi Văn Sớn ở Châu Trang - năm 1947 mới 20 tuổi, phụ trách dân quân đánh cồng mỗi khi có chiến sĩ chết - đưa chiếc cồng và cái dùi ra kể chuyện cũ. Những cái chết vì nước, vì dân đã đem lại cho chiếc cồng sắc thái văn hóa bi tráng của thời vệ quốc.

Thời Tây Tiến, gian khổ được nhìn bằng con mắt hài hước. Câu "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" được ông Lâm giải thích có ba ý: nhiều chiến sĩ Tây Tiến đã cạo trọc từ hồi còn ở thành phố (Như Trang là một thí dụ); do bị sốt rét kinh niên rụng hết (tới 90 phần trăm); và để chống chấy (người phát động là bác sĩ Phạm Ngọc Khuê).

Còn chất anh hùng ca là âm điệu chủ đạo, cái chết mang mầu bi tráng chứ không bi lụy. Sông Mã gầm lên khúc độc hành trước lúc sinh ly tử biệt của đồng đội - "áo bào thay chiếu anh về đất" - hào sảng trong hiện thực nghiệt ngã ở chỗ đó.

Ông Lâm cho biết trong một trận càn, Như Trang đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng, viên đạn mà ông Lâm kể, "Như Trang luôn lau nó sau cùng với nhiều lần nói: "Viên này phần tao", thà chết vẻ vang chứ không chịu sa vào tay giặc".

Thế nên, bài thơ khóc con của cụ Nguyễn Như Hoàn, bố của liệt sĩ Như Trang trong kỷ niệm của ông Lê Hùng Lâm, sự mất mát chia ly cha-con đã hàm một nghĩa rộng lớn nhân văn, cao cả. Ðó là sự bất diệt của một lý tưởng, của một lẽ sống, một nhân sinh quan cách mạng.

Ðắp mãi mồ con, ngại nặng con
Hỏi con còn mất, mất hay còn?
Tình cha đã nặng, vun chi đất
Phủ kín mình con nghĩa nước non...

Có thể bạn quan tâm