Vừa có tín hiệu phục hồi khi thị trường bất động sản bắt đầu khởi sắc sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhưng nếu không có các biện pháp phù hợp, ngành thép có thể lại rơi vào khó khăn trước sức ép từ thép nhập khẩu. Do đó, việc kiểm soát chất lượng, số lượng thép nhập khẩu, cũng như tăng cường bảo hộ cho nền sản xuất thép trong nước đang là vấn đề cấp bách, cần được quan tâm hơn nữa.
Gia tăng sức ép cạnh tranh
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), ngành thép Việt Nam hiện nay đang đứng đầu danh sách về các vụ kiện phòng vệ thương mại và được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Riêng trong giai đoạn năm 2004-2022, các nước trên thế giới đã kiện thép xuất khẩu của Việt Nam với gần 70 vụ việc.
Những vụ kiện này không chỉ đến từ các thị trường xuất khẩu lớn và “khó tính” như Mỹ, Canada, EU mà còn ngay tại thị trường “ruột” ở một số nước trong khu vực ASEAN như: Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Ðiều này đã đưa ngành thép trở thành ngành có áp lực chịu kiện phòng vệ thương mại lớn nhất và dự báo xuất khẩu các sản phẩm từ thép sẽ gặp nhiều khó khăn thời gian tới.
Không chỉ xuất khẩu gặp khó, ngay tại thị trường trong nước, áp lực cạnh tranh cũng rất khốc liệt khi làn sóng thép nhập khẩu đang ồ ạt vào nước ta, nhất là với thép giá rẻ từ Trung Quốc. Bởi cũng như Việt Nam, những năm gần đây, ngành thép của một số quốc gia, trong đó có Trung Quốc phải đối diện với vấn đề dư thừa nguồn cung, chi phí sản xuất tăng. Trước xu hướng này, Trung Quốc đang tìm cách đưa lượng lớn hàng tồn dư của mình sang các nước khác.
Số liệu từ Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho thấy, trong năm 2023, Việt Nam nhập khẩu tới 13,8 triệu tấn thép các loại, tăng 3,2% so với năm 2022 và 11% so với năm 2021, với giá trị đạt 10,4 tỷ USD. Chỉ riêng hai tháng đầu năm, cả nước đã nhập khẩu 2,65 triệu tấn với trị giá là 1,88 tỷ USD, tăng 85,4% về lượng và tăng 57% về trị giá so với hai tháng đầu năm 2023, trong đó, 70% là thép nhập từ Trung Quốc. Dự báo, đến hết quý I/2024, giá trị nhập khẩu thép sẽ vượt bốn tỷ USD.
Các chuyên gia cho rằng, tuy lợi nhuận ngành thép từ cuối năm 2023 đến nay khả quan hơn so với năm ngoái, nhưng thị trường thép Việt Nam vẫn đang chịu nhiều ảnh hưởng từ thị trường Trung Quốc. Vì vậy, việc nhập khẩu ồ ạt mặt hàng thép trong khi chưa có những hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm tra chất lượng, đã khiến doanh nghiệp sản xuất thép trong nước gặp khó, nhất là khi giá bán của thép từ Trung Quốc thấp hơn nhiều so với thép Việt Nam, có thể gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Thực tế ngay từ đầu năm 2024, bức tranh kinh doanh của các doanh nghiệp ngành thép đã bước qua thời kỳ ảm đạm khi giá thép đã có dấu hiệu phục hồi tăng trở lại, các doanh nghiệp không còn phải trích lập hàng tồn kho lớn như năm ngoái. Tuy nhiên đến nay, do nhu cầu tiêu thụ phục hồi chậm, lại phải cạnh tranh gay gắt với thép giá rẻ đến từ Trung Quốc, cho nên giá các mặt hàng thép của Việt Nam hiện chỉ đang giao dịch quanh mức 14 triệu đồng/tấn.
Cần có các giải pháp mạnh mẽ, phù hợp
Trước làn sóng thép Trung Quốc đang tràn vào nước ta, một số doanh nghiệp kiến nghị cần nhanh chóng áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm thép HRC nhập khẩu từ Trung Quốc. Mới đây, hai doanh nghiệp sản xuất thép lớn trong nước gồm Tập đoàn Hòa Phát và Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa đã đề xuất khởi xướng điều tra chống bán phá giá thép Trung Quốc.
Hai doanh nghiệp này cho rằng, sản lượng thép nhập khẩu tăng đột biến cũng như giá bán thép Trung Quốc giảm mạnh có thể gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước. Với lượng nhập khẩu tăng mạnh gấp 2-3 lần, nhưng mức giá thép cuộn cán nóng của Trung Quốc từ quý I/2023 đến nay đã giảm từ 618 USD/tấn xuống còn khoảng 520-560 USD/tấn tùy loại.
Thậm chí trước tình trạng dư thừa nguồn cung, nhiều công ty thép Trung Quốc đã và đang chấp nhận bán lỗ dưới giá vốn để đưa được sản phẩm ra bên ngoài. Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát Nguyễn Việt Thắng chia sẻ, doanh nghiệp đã có đơn kiến nghị gửi Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công thương) xem xét, đánh giá, nếu phát hiện có vi phạm, cần áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại ngay để bảo hộ nền sản xuất thép trong nước. Song điều mà các doanh nghiệp thép quan tâm là một giải pháp đồng bộ từ Nhà nước hướng tới một thị trường lành mạnh, công bằng hơn.
Cụ thể, các cơ quan quản lý nhà nước cần nhanh chóng thiết lập hàng rào kỹ thuật nhằm kiểm soát tuân thủ chất lượng, điều tiết lượng hàng nhập khẩu; tăng cường biện pháp phòng vệ thương mại, áp thuế cao đối với các hàng hóa nhập khẩu được trợ giá như nhiều quốc gia khác đã và đang thực hiện; tăng cường rà soát để tránh trường hợp thép giá rẻ Trung Quốc “đội lốt” hàng Việt Nam xuất khẩu sang các nước khác...
Tiêu thụ trong nước sụt giảm, xuất khẩu gặp khó khăn, nhưng thép nhập khẩu vẫn ùn ùn vào Việt Nam, đang khiến các doanh nghiệp lao đao. Thế nhưng theo quy định của Việt Nam, thép không nằm trong mặt hàng nhóm 2 gây mất an toàn theo Thông tư 06/2020/TT-BKHCN, cho nên không thuộc đối tượng phải kiểm tra chuyên ngành về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Trong khi đó, thép Việt Nam khi xuất khẩu sang các nước đều phải có giấy chứng nhận sản phẩm theo tiêu chuẩn riêng của từng nước khá khắt khe, thì Việt Nam vẫn chấp nhận tiêu chuẩn do doanh nghiệp tự soạn và công bố.
Chủ tịch VSA, Nghiêm Xuân Ða
Ngoài ra, sản phẩm thép nhập khẩu vào Việt Nam phần lớn được hưởng mức thuế nhập khẩu 0%, thuế chống bán phá giá dao động trong khoảng 4,43-25,22%; trong khi thép Việt Nam xuất khẩu sang nhiều nước phải chịu thuế rất cao lên tới 42% tại Thái Lan, và 450% tại Mỹ. Hơn nữa, tại Việt Nam, các biện pháp phòng vệ thương mại như tự vệ phôi thép đã bị dỡ bỏ; các sản phẩm thép khác như tôn mạ, tôn màu, thép HRC, ống thép, thép dự ứng lực,... đều không phải chịu bất kỳ biện pháp phòng vệ thương mại nào.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, các doanh nghiệp thép trong nước vẫn hạn chế về năng lực tài chính, công nghệ, dẫn đến tiêu tốn nhiên liệu, chi phí cao. Ðó là lý do khiến các sản phẩm thép trong nước khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu, giá thành rẻ.
Vì vậy, cùng với các giải pháp bảo hộ phù hợp thông lệ quốc tế, vấn đề cốt lõi là các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước cần nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy mô sản xuất với quy trình khép kín, chủ động tái cơ cấu, tăng cường đầu tư công nghệ tiên tiến nhằm giảm giá thành sản phẩm, góp phần cạnh tranh tốt hơn. Ðồng thời, cần chủ động được nguồn nguyên liệu, đa dạng hóa thị trường, cơ cấu sản phẩm, nhất là các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu với biên lợi nhuận cao.