Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 16 chương trình khoa học và công nghệ quốc gia, gồm 2 chương trình thực hiện dưới hình thức nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt. Bộ đã phê duyệt 17 Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia giai đoạn 2021-2025 và 2021-2030.
Đồng thời, Bộ đã phối hợp các bộ, ban, ngành liên quan nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện dự thảo 5 thông tư gồm: Thông tư quy định trình tự, thủ tục xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư quy định tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư quy định việc kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh và chấm dứt hợp đồng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư quy định việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư hướng dẫn một số nội dung về xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
Do đó, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ mong muốn các đại biểu trao đổi, thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp về các nội dung thay đổi lớn hiện đang được đưa ra trong dự thảo 05 Thông tư liên quan việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia từ khâu xác định nhiệm vụ, tổ chức đặt hàng, tuyển chọn và xét chọn, kiểm tra trong quá trình thực hiện đến khâu đánh giá nghiệm thu cuối cùng nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Các nội dung đổi mới, sửa đổi trong đợt rà soát này được triển khai bám sát theo 3 định hướng quan trọng gồm: Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho khoán chi và tăng cường hậu kiểm trong quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Tạo điều kiện đơn giản hóa về thủ tục thực hiện cho các bên tham gia, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phối hợp thực hiện cùng các viện, trường, tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm liêm chính học thuật; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng cơ sở dữ liệu đã hình thành và tạo ra cơ sở dữ liệu theo thời gian thực.
Toàn cảnh hội thảo. |
Hội thảo nằm trong chuỗi các hoạt động của Bộ Khoa học và Công nghệ nhằm tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sau khi được tái cơ cấu theo Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1066/TTg-KGVX về việc tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Cụ thể, các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn tới cần bám sát Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và quan điểm chỉ đạo về lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học là các chủ thể nghiên cứu mạnh; Chú trọng thu hút nguồn lực xã hội đặc biệt là từ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp để đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp; Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trên tinh thần chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng, tạo điều kiện cho khoán sản phẩm và hậu kiểm, gắn kết chặt chẽ với thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp và sản phẩm đầu ra; Góp phần phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ trong trung hạn và dài hạn, phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản, các hướng công nghệ ưu tiên, các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của đất nước hoặc phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia, phải gắn kết với lộ trình công nghệ của các ngành, lĩnh vực, phù hợp với nội dung Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030, Phương hướng nhiệm vụ khoa học và công nghệ 5 năm 2021-2025.
Cùng với đó, các Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia phải bảo đảm không trùng lặp về nội dung nghiên cứu và phân bổ nguồn lực, có sự kết nối, liên thông giữa các chương trình; Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải có tính ứng dụng cao đối với phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội trong phạm vi cả nước, giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ liên quan nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng.
Mục tiêu, kết quả đạt được của các chương trình phải góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường trong nước, phát triển ra thị trường quốc tế với các ngành hàng có lợi thế tiềm năng; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhóm nghiên cứu mạnh, gia tăng số lượng các công bố quốc tế, đăng ký sáng chế, cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII); Ưu tiên phát triển các mô hình sinh kế gắn với đặc thù của vùng, địa phương, có hệ thống các giải pháp công nghệ gắn với khai thác tài nguyên, chế biến đặc sản của vùng, miền và gắn với chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu.