Mỹ thuật dân gian với hình tượng con lợn

Những năm sáu, bảy mươi của thế kỷ trước, các nhà khảo cổ Việt Nam đã tìm thấy khá nhiều mảnh xương và hộp sọ lợn tương đối nguyên vẹn tại di chỉ "Kéo Làng" Lạng Sơn... Như thể đủ chứng minh là họ nhà Lợn đã có mặt và gắn bó mật thiết với đời sống vật chất của loài người từ thời Đồ Đá cũ.

Cách đây năm đến mười vạn năm và cũng bằng thời gian đó, mỹ thuật thế giới cũng ghi nhận hình tượng Lợn trong đời sống tinh thần không thể thiếu của nền văn minh nguyên thủy - Loài người khi đó đã biết dùng răng nanh lợn rừng (lợn lòi) để làm đồ trang sức tôn thêm cái uy tỏ thêm cái mạnh của mình trước thiên nhiên hoang dã...

Nghệ thuật Hang Động hay còn gọi là Nghệ thuật Nguyên thủy có niên đại bốn vạn năm được thể hiện trên vách hang động, thí dụ như Động Antamira của Tây Ban Nha cho ta thấy hình ảnh những con lợn rừng hung dữ trong nhiều động thái: Đề phòng, nuôi con, chống cự, tiến công rất dũng mãnh. Các bức khắc, vẽ được người tiền sử vạch bằng đá cứng đơn sơ trên nền đá vôi mềm rồi dùng các loài mầu lấy từ đất, đá son, than tro trộn với mỡ hoặc máu động vật tô lên. Vậy là hoàn chỉnh những "tác phẩm" mỹ thuật nguyên thủy có cả khối, mầu mảng nét.

Ở Việt Nam ta trong hang Đồng Nội thuộc di chỉ đồ đá cũ Hòa Bình, mới chỉ tìm thấy hình ảnh của người, cụ thể là mặt của ba cô gái. Chưa thấy dấu hiệu một hang động nào để lại được hình ảnh động vật trong đó có Lợn... Nhưng cái con vật đứng vào hàng cuối cùng của mười hai con Giáp đã cống hiến một hình mẫu tuyệt vời cho những bức tranh Tết dân gian đặc sắc. Phải chăng các "nghệ sĩ làng quê" của ta đã tiếp thu và phát huy từ cái nhìn hóm hỉnh tinh tế đến độ giản đơn như một "tín hiệu” của các "nghệ sĩ nguyên thủy" từ đó có được những tác phẩm hội họa và điêu khắc cổ.

Người Việt ta xưa cứ nói đến trang trí thì nghĩ ngay là Tranh Tết, cụ thể và đích danh hơn là tranh "Gà Lợn". Thi sĩ Hoàng Cầm vùng quê Kinh Bắc thật tài hoa chỉ với hai câu thơ rất mộc mạc mà nói lên được toàn bộ cái mạch nguồn đẹp đến hút hồn của nghệ thuật tranh Dân gian.

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Mầu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

Tranh Đông Hồ có rất nhiều chủ đề riêng cho Lợn. Có hai chủ đề chính là - Lợn độc (lợn ăn cây dáy) nói lên cái anh hùng nhất khoảnh hoà hợp với tự nhiên, Lợn đàn biểu hiện sự thầm kín của mơ ước phồn thực sinh sồi, tranh này cận tả một "Bà sề" với năm đứa con còn ngậm vú rất sinh động ở chỗ cái hồn nhiên quấn quít của "bọn trẻ" và sự ung dung viên mãn cùng nụ cười tươi của lợn mẹ trong hạnh phúc bầy đàn, cái sâu sắc tinh tế được nghệ sĩ thể hiện chỉ qua hai cái khoáy âm, dương, bốn năm đường cong hình trăng khuyết để diễn đạt sự mũm mĩm của đàn lợn. Ánh sáng trong tranh là ánh sáng ước lệ qua những mảng nâu xanh giản dị mà thấy được sự xa gần hợp lý có đậm có nhạt.

Tranh Lợn độc thể hiện một chàng lợn đực to khỏe đang ăn cây khoai dáy đường nét cường điệu lạ đến bất ngờ. Miệng ngậm chặt cây dáy mắt trừng mở, lông dựng ngược, chân đóng chắc xuống đất như muốn cảnh báo: "Đây là của ta nếu cướp thì liệu hồn". Mầu sắc và bố cục chặt chẽ đến độ không thể thêm vào và bớt ra.

Hai bức tranh lợn này mang đậm tính tư duy trừu tượng phản ánh cái ước mơ sung túc, phồn thực, mưa hòa, gió thuận trong thái bình thịnh trị của cư dân thôn dã châu thổ sông Hồng đúng như câu ca dao:

Thóc nhiều hẳn gạo đầy kho
Gà to, lợn béo cơm no áo lành

Chú Lợn hiện diện trong điêu khắc dân gian cũng được các nghệ sĩ thời Hậu Lê đưa vào những bức chạm trang trí trong đình chùa. Táo bạo hơn người nghệ sĩ còn "dám đặt nó" vào vị trí thiêng liêng, trên một chiếc bệ thờ ở đình Tam Đà (Ba Vì - Hà Tây) tả cảnh rồng và mây theo tích "Long Vân tụ hội" xen vào đó là một chú ỉn rất thản nhiên đứng ăn cây khoai môn. Một bức chạm nữa ở chùa Cự Trù (Nam Ninh - Nam Định) cũng rất đẹp: một chú bé béo tròn tươi cười dắt trâu, người mẹ vừa cho con bú vừa ngắm nhìn chú ỉn đang sục mõm vào máng ăn.

Hai tác phẩm điêu khắc tiêu biểu này đều ở vào thế kỷ XVII, đây là thời kỳ nở rộ của nghệ thuật dân gian. Trong bức chạm thứ nhất ta thấy chú Lợn nằm chung trong bố cục với đấng "Thiên Tử”, ở bức chạm thứ hai nó lại nằm chung trong khung cảnh yên bình trữ tình dân dã.

Các nghệ thuật và thợ làm gốm cũng thật tài tình và ý nhị trong cách nghĩ và cách tạo hình con lợn đất nung có sơn, phủ mầu sặc sỡ. Chú lợn đất được khoét ở mông mót lỗ nhỏ đủ bỏ vào đồng xu dùng cho trẻ em "Nuôi Lợn đầu năm" đến cuối năm khi các chú lợn được vỗ béo tròn bụng căng đầy tiền, các em bé làm một cái lễ mổ lợn (đập vỡ) lấy tiền mua sắm giấy bút và tiêu Tết vui thật là vui.

Dù ở thể loại nào hay chất liệu gì trong Mỹ thuật Dân gian thì dáng dấp đặc điểm họ nhà Lợn vẫn nhất quán trong phong cách diễn tả, đó là con lợn Việt Nam béo mập lưng võng bụng xệ mõm ngắn chân thấp, vóc dáng bề ngoài cho thấy bản tính của nó là hiền lành hay ăn chóng lớn, chú ỉn trong thực tế đã là rất dễ thương nhưng trong nghệ thuật điều này còn được nhân lên gấp nhiều lần bởi lẽ các nghệ sĩ dân gian đã thể hiện nó bằng các hình khối, mầu sắc, đường nét thật linh hoạt, sinh động trong ngẫu hứng bình dân.

Có thể bạn quan tâm