Mỹ học Mác-xít là hạt nhân kiến tạo lý thuyết

LTS - Cuộc tọa đàm "Từng bước xây dựng lý luận văn nghệ Việt Nam" do Báo Nhân Dân và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật T.Ư phối hợp tổ chức ngày 23-7 tại Hà Nội đã cơ bản đạt được những thống nhất về phương pháp luận, gợi mở những nội dung, cơ chế chính sách... Từ số báo này, chúng tôi sẽ trích đăng trên trang 5 ngày thứ sáu hằng tuần tham luận của các nhà khoa học tại cuộc tọa đàm về những vấn đề nêu trên...

Xin bắt đầu câu chuyện từ sự quan sát của bản thân. Sau nhiều năm liên tục đứng trên bục giảng, tôi thấy hệ thống sách giáo khoa, giáo trình được sử dụng để đào tạo trong nhà trường của chúng ta là nơi phản ánh đầy đủ, trung thành nhất các nguyên lý cơ bản của mỹ học Mác - Lê-nin. Thường so sánh, đối chiếu hệ thống tri thức của các bộ giáo trình này với lý thuyết về văn học được sử dụng ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, tôi nhận ra, nền lý luận văn nghệ Mác-xít của chúng ta chỉ là một phiên bản của mỹ học Liên Xô (trước đây). Thành thử, muốn nhận ra những điểm bất cập ở nền lý luận văn nghệ Việt Nam, cần nhìn lại phiên bản mỹ học này. Rất dễ nhận ra, đây là phiên bản mỹ học được kiến tạo trên nền tảng của hai trụ cột tri thức:

Trụ cột thứ nhất là Phản ánh luận Mác-xít. Dựa vào trụ cột này, từ những năm 30 của thế kỷ 20, mỹ học Xô-viết chính thống đã kiến tạo hoàn chỉnh hệ thống tri thức hàn lâm của nó. Dựa vào phản ánh luận, xem văn học là hình thái ý thức xã hội đặc thù thuộc thượng tầng kiến trúc, các tác giả giáo trình xây dựng lý thuyết về nguồn gốc văn học, về đặc trưng của ý thức thẩm mỹ và nhận thức nghệ thuật, về bản chất xã hội và chức năng của văn nghệ, lý thuyết về quy luật phát triển của lịch sử văn nghệ, về nguồn gốc phát sinh của nó, về mối quan hệ giữa văn nghệ với nền tảng kinh tế, văn nghệ và hiện thực đời sống.

Trụ cột thứ hai là nội dung Tư tưởng hệ. Dựa vào cột trụ này, mỹ học Mác-xít ở Liên Xô (trước đây) kiến tạo hệ thống điển phạm, từ phương pháp sáng tác, đến tác gia, tác phẩm, cho tới các tự sự và nhân vật văn học. Chính các loại điển phạm này đã tạo thành "khung tri thức" định hướng cho hoạt động sáng tác và nghiên cứu, phê bình văn học.

Với hai cột trụ tri thức nói trên, phiên bản mỹ học Mác-xít Xô-viết mà chúng ta đã tiếp thu chưa phản ánh được toàn bộ tinh hoa của mỹ học Mác-xít với những phiên bản khác nhau, vô cùng phong phú, đa dạng của nó. Nó không biết tới các phiên bản mỹ học Mác-xít Tây Âu, ví như "cấu trúc luận phát sinh" của trường phái Pháp - Bỉ đứng đầu là Luy-xiêng Gốt-man (Lucien Goldmann). Hệ thống lý thuyết của trường phái này được xem là phiên bản tổng hợp học thuyết của Các Mác với mỹ học của G.Lu-cát (Gyorgy Lukács) ở giai đoạn đầu. Bản thân mỹ học của G.Lu-cát, một nhà mỹ học Mác-xít Hung-ga-ri, cũng xa lạ với chúng ta. Ðáng tiếc nhất là hệ thống lý thuyết do "nhóm" Ba-khơ-tin (Mikhail Mikhailovich Bakhtin) đề xướng vào những năm 20 của thế kỷ 20 qua một loạt tác phẩm như Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ: Những vấn đề cơ bản của phương pháp xã hội học trong khoa học về ngôn ngữ (V.N.Vô-lô-xi-nốp đứng tên), hay Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học; Nhập môn phê bình thi pháp xã hội học (P.N.Mét-vê-đép đứng tên) đã bị mỹ học Xô-viết đã bỏ qua, rồi sau đó bỏ quên suốt một phần ba thế kỷ. Trong khi mỹ học Xô-viết bỏ qua và bỏ quên các tác phẩm ấy, thì các nước Âu - Mỹ lại tiếp thu hệ thống tư tưởng của chúng để mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa hậu cấu trúc, giải cấu trúc, hậu hiện đại và nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn.

Phiên bản mỹ học Mác-xít Xô-viết có nhiều hạn chế cần khắc phục.

Chẳng hạn, phản ánh luận có thể là chỗ dựa khoa học để kiến tạo lý thuyết về những vấn đề chung, có tính chất "nguyên lý", thuộc phạm vi triết - mỹ, ví như nguồn gốc, bản chất, chức năng, hay quy luật vận động lịch sử của nghệ thuật như một hình thái ý thức xã hội. Nhưng nó không cung cấp cơ sở khoa học để xây dựng lý thuyết về đặc trưng văn nghệ, trong đó có những vấn đề tối quan trọng, ví như thể loại văn học và thi pháp nghệ thuật. Mặt khác, xem nhẹ phong cách nghệ thuật, càng không thể đề cao vai trò của tiềm thức, vô thức và trực giác trong nhận thức thẩm mỹ.

Một hạn chế khác là, khi tuyệt đối hóa cái nhìn tư tưởng hệ để hình thành hệ thống điển phạm định hướng thực tiễn, mỹ học Xô-viết chứa đựng trong bản thân những mâu thuẫn nội tại, các mặt đối lập của nó luôn có khả năng chuyển thành xung đột dẫn tới nguy cơ chân lý nghệ thuật có thể bị triệt tiêu. Nghệ thuật có chân lý của nghệ thuật. Tư tưởng hệ có chân lý của tư tưởng hệ. Hai loại chân lý ấy có thể thống nhất, nhưng không đồng nhất.

Chân lý nghệ thuật là một cấu trúc biểu nghĩa đặc thù. Hiểu theo tinh thần của phản ánh luận truyền thống, xem văn học nghệ thuật là phương thức nhận thức đời sống, cấu trúc đặc thù ấy là một chỉnh thể hữu cơ của ba mặt nội dung: bản thể luận, nhận thức luận và giá trị luận. Nội dung bản thể luận (hay tồn tại luận) là hình ảnh cụ thể - cảm tính của đối tượng được nhận thức. Nó là bức tranh thế giới được mô tả trong sáng tác nghệ thuật. Nội dung nhận thức luận là ý nghĩa trừu tượng, biến hình ảnh cụ thể - cảm tính của đối tượng mô tả thành hình ảnh tiêu biểu, phổ quát, thành cái có thể có. Nội dung giá trị luận chính là bình diện tư tưởng hệ. Nó là tầng nghĩa được rút ra từ sự định giá thẩm mỹ. Gọi ba mặt nội dung ấy là chỉnh thể hữu cơ, vì nghệ thuật mô tả dưới ánh sáng của sự khái quát và sự định giá thẩm mỹ, ngược lại, nó định giá và khái quát ngay ở sự mô tả. Cho nên, chân lý nghệ thuật bao giờ cũng đa nghĩa, đa trị. Tuyệt đối hóa bất kỳ một phương diện nào từ ba mặt của chỉnh thể nội dung ấy, chân lý nghệ thuật lập tức có nguy cơ bị triệt tiêu.

Ngày nay, ta hiểu thêm, nghệ thuật không chỉ là phương thức tư duy, mà còn là hình thức giao tiếp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một sự kiện giao tiếp diễn ra giữa nhà văn với người đọc, giữa người đọc với nhà văn và thế giới hình tượng do nhà văn sáng tạo ra. Ðó là một quan hệ "tay ba", quan hệ liên chủ thể. Diễn ra trong mối quan hệ ấy, chân lý nghệ thuật là một cấu trúc biểu nghĩa đòi hỏi sự đồng thuận, "có mình, có ta". Ðây là sự đồng thuận của các tư tưởng hệ được hình thành trên hành trình đối thoại. Tuyệt đối hóa một hệ tư tưởng nào đó trong quan hệ liên chủ thể của sự kiện giao tiếp lời nói, chân lý nghệ thuật sẽ bị phương hại. Ta hiểu vì sao lịch sử văn học nghệ thuật của nhân loại là hành trình vận động từ nguyên tắc độc thoại đến nguyên tắc đối thoại, từ truyền thuyết, sử thi, truyện kể đến tiểu thuyết, chứ không phải ngược lại.

Xin khép lại bài viết bằng mấy kết luận như sau:

Thứ nhất, di sản triết học và mỹ học đồ sộ của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác là cơ sở khoa học tin cậy mà chúng ta có thể khai thác để kiến tạo hệ thống lý luận văn nghệ hiện đại. Thực tế cho thấy, nhiều trường phái nghiên cứu, nhiều học giả lớn trên thế giới đã và đang dựa vào di sản vô giá này để xây dựng các hệ thống lý thuyết riêng, hết sức độc đáo. Học thuyết "xuyên ngôn ngữ" trong phiên bản Mác-xít của "nhóm" Ba-khơ-tin, "cấu trúc luận phát sinh" của trường phái "Pháp - Bỉ", lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực của G.Lu-cát... là những thí dụ tiêu biểu.

Thứ hai, lý luận văn nghệ cho đến nay vẫn đang được sử dụng để giảng dạy trong nhà trường, trong nghiên cứu, phê bình văn học ở Việt Nam về cơ bản là phiên bản mỹ học Mác-xít của Liên Xô (trước đây). Là sản phẩm của lịch sử, phiên bản này không tránh khỏi những hạn chế lịch sử. Có ba hạn chế quan trọng. a) Nó chưa hấp thụ được tinh hoa của toàn bộ mỹ học Mác-xít với những phiên bản vô cùng phong phú, đa dạng. b) Nó chưa đề cao vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong tư duy, chưa tiếp cận văn nghệ như một hình thức diễn ngôn. c) Nó thu hẹp nội hàm phạm trù "tư tưởng hệ", đồng nhất tư tưởng hệ với thế giới quan, lập trường giai cấp, tính đảng và tuyệt đối hóa vai trò của nó trong sáng tác nghệ thuật.

Thứ ba, để mỹ học Mác-xít vẫn là hạt nhân kiến tạo lý thuyết, thiết nghĩ, có ba điểm cần bổ sung. a) Trên nền tảng di sản triết học và mỹ học của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác, cần kiện toàn hệ thống lý thuyết về các vấn đề riêng, liên quan tới đặc trưng và thi pháp nghệ thuật. b) Cần xóa bỏ định kiến cho rằng chỉ có một phiên bản mỹ học Mác-xít nào đấy là duy nhất đúng. Bởi vì, chỉ khi ấy chúng ta mới có kế hoạch nghiên cứu thấu đáo toàn bộ di sản mỹ học Mác - Lê-nin với mọi phiên bản khác nhau, hấp thu tinh hoa của nó, làm cho nền lý luận văn nghệ của chúng ta ngày càng trở nên giàu có. c) Tiếp thu những thành tựu lý luận hiện đại của nhân loại trên tinh thần đối thoại.