60 năm sau Ngày giải phóng, Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế tri thức so với các địa phương khác trong cả nước.
Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng hiện đại, hiệu quả tăng nhanh một số ngành có giá trị gia tăng cao. Công nghiệp tiếp tục được đầu tư phát triển theo hướng có chọn lọc, tập trung vào các ngành được ưu tiên đầu tư và các ngành có trình độ công nghệ cao như: bưu chính - viễn thông, tín dụng - ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, vận tải… đều tăng trưởng khá. Trong đó, ngành tài chính - ngân hàng có mức tăng trưởng cao nhất với 17,8%, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ. Giá trị sản xuất nông nghiệp, thủy sản trên một ha tăng mạnh, năm 2010 đạt 141 triệu đồng/ha… So với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, Hà Nội có nền tảng vững chắc phục vụ cho công tác nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học-công nghệ, tạo nên các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Một số sản phẩm có chất lượng cao và giá thành thấp, dần thay thế hàng nhập khẩu. Với vị thế của Thủ đô - Hà Nội là nơi tập trung đông các nhà khoa học đầu ngành đang công tác tại các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học. Các nhiệm vụ nghiên cứu được tập trung vào các vấn đề mang giá trị thực tiễn cao, xuất phát từ những nhu cầu của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do vậy, kết quả nghiên cứu đã góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả trong các ngành, các lĩnh vực.
Tuy nhiên, về cơ bản, kinh tế Hà Nội vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng; phần lớn các ngành kinh tế dựa vào nguồn vốn, lao động, công nghiệp lắp ráp, gia công. Các ngành kinh tế, dịch vụ mũi nhọn có hàm lượng kinh tế tri thức, trình độ cao, chất lượng cao còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế và giá trị gia tăng. Nguồn nhân lực, năng suất lao động, thiết bị máy móc, hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu và thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
Mặc dù Hà Nội là địa bàn có lợi thế về chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế, nhưng quá trình tham gia vào hội nhập, phân công lao động quốc tế, khu vực và các địa phương trong nước còn nhiều hạn chế; chưa tập trung và khai thác hiệu quả lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao; chưa có những công trình nghiên cứu ứng dụng có tính đột phá, kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn thấp và dàn trải... Nhận thức và đổi mới tư duy về phát triển kinh tế tri thức của các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp trên địa bàn còn mờ nhạt, chưa thật sự chuyển động, quá trình đổi mới về thể chế, thiết chế, môi trường pháp lý và môi trường sản xuất, kinh doanh chưa bắt kịp với xu hướng vận động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế… Để phát triển kinh tế tri thức trên địa bàn, ngoài những nhiệm vụ và giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài, thành phố cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trước mắt. Trước hết, phải xác định đúng những ngành sử dụng nhiều tri thức để ưu tiên phát triển trước, tập trung đầu tư nguồn lực, tạo động lực thúc đẩy cả hệ thống trong ngành và liên ngành. Hà Nội cần đi đầu để khai thác những thuận lợi về số lượng và chất lượng lao động tri thức tập trung; đồng thời, chủ động tạo lập môi trường thuận lợi cho sáng tạo, trao đổi và ứng dụng tri thức. Đồng thời, xây dựng cơ chế thuận lợi cho việc trao đổi tri thức, chuyên gia, đào tạo giữa Hà Nội với các trung tâm hoạt động khoa học - công nghệ tiên tiến trong nước, khu vực và thế giới, không chỉ coi trọng việc chuyển giao tri thức mà còn phải học hỏi phương thức tổ chức và quản lý hoạt động khoa học - công nghệ tiên tiến. Hà Nội phải thực hiện đồng bộ các biện pháp để rút ngắn con đường từ sáng tạo đến ứng dụng tri thức, mở rộng sự hợp tác thiết thực giữa các cơ quan hoạt động khoa học - công nghệ của thành phố với các hội, hiệp hội khoa học - kỹ thuật và các hiệp hội doanh nghiệp; quan tâm ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ từ những hoạt động thường xuyên, vi mô đến những hoạt động mang tính chiến lược cơ bản lâu dài có tính chất vĩ mô.
Quan trọng hơn là phải xây dựng và thực hiện ngay chính sách phát triển nguồn lao động tri thức cao cấp và nguồn vốn con người: đánh giá và sử dụng nguồn lao động tri thức đã đào tạo; đào tạo những người trẻ tuổi có tài năng, triển vọng theo kịp đà phát triển của tri thức có tinh thần yêu nước, yêu khoa học; thu hút các chuyên gia nước ngoài cho các lĩnh vực đang nghiên cứu, đặc biệt chính sách thích hợp, xứng tầm thu hút người Việt Nam học tập và làm việc ở nước ngoài về công tác tại Hà Nội.
TS NGUYỄN ĐÌNH DƯƠNG
Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội