Ấy vậy mà nhắc đến ca trù Lỗ Khê, nhiều người vẫn thấy xa lạ. Hiện nay, những nghệ nhân ca trù Lỗ Khê vẫn bền bỉ gìn giữ ca trù, dù việc biểu diễn và truyền nghề cho thế hệ trẻ còn nhiều khó khăn, trở ngại.
Không nhiều người biết rằng, khi nghe biểu diễn ca trù trong khu phố cổ, người ta đã được nghe ca trù Lỗ Khê (xã Liên Hà, huyện Ðông Anh). Bởi lẽ, Giáo phường Ca trù Thăng Long thường mời kép đàn Nguyễn Văn Tuyến, ca nương Phạm Thị Mận của Lỗ Khê tham gia biểu diễn tại đền Quán Ðế, 28 phố Hàng Buồm. Ðể chuẩn bị cho buổi biểu diễn, cứ chập tối là các nghệ nhân đã phải "khăn gói" đi xe máy "ra" Hà Nội. Biểu diễn xong đã hơn 9 giờ tối. Về đến nhà đã khuya. Cả đi, cả về là quãng đường hơn 40 km. Do số người quan tâm đến ca trù rất ít, cho nên thù lao những buổi biểu diễn như thế không đáng là bao. Nhưng những nghệ nhân của Lỗ Khê như anh Tuyến, chị Mận vẫn nhiệt tình tham gia. Bởi đó còn là cơ hội để họ được biểu diễn, được sống với niềm đam mê của mình.
Theo các nghệ nhân, Lỗ Khê có lịch sử 600 năm gắn bó với ca trù. Ông tổ ca trù Lỗ Khê là ông Ðinh Dự - con trai của tướng Ðinh Lễ, một danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và vợ là bà Mãn Ðường Hoa. Xưa kia, hai người đã dạy cho nhân dân Lỗ Khê hát ca trù và giáo phường ca trù Lỗ Khê đã nổi tiếng trong suốt nhiều thế kỷ. Những năm đầu thế kỷ 20, khi ca trù đang hồi thịnh vượng, cũng giống như các làng Chanh Thôn (huyện Phú Xuyên), làng Ngãi Cầu (huyện Hoài Ðức), làng Lỗ Khê có rất nhiều người làm nghề hát ca trù tại phố Khâm Thiên. Sau một thời gian ca trù bị hiểu lầm, đến nỗi đi đâu người Lỗ Khê cũng không dám ngẩng đầu lên vì bị gọi là "làng cô đầu", mãi đến những năm 90 của thế kỷ trước, ca trù mới dần được quan tâm khôi phục. Ngày ấy, kinh tế còn nhiều khó khăn, không phải tất cả người dân Lỗ Khê đều mặn mà với ca trù. Nhưng dường như truyền thống mấy trăm năm đã tiếp thêm sức mạnh cho sự hồi sinh. Khi ấy cụ Phạm Thị Mùi, một ca nương nổi tiếng trước năm 1945 đã truyền dạy cho thế hệ trẻ. Hai trong số những học viên ngày ấy nay đã trở thành những ca nương nổi tiếng là ca nương Phạm Thị Mận, Nguyễn Phương Thảo.
Nếu như nhiều giáo phường, câu lạc bộ thường có tình trạng mạnh về đào nương nhưng yếu kép đàn và ngược lại, thì hiếm nơi nào có sự phát triển toàn diện như Lỗ Khê. Cùng thế hệ với chị Mận, chị Thảo, Lỗ Khê còn có kép đàn Nguyễn Văn Tuyến. Anh từng theo học nhiều bậc tiền bối chơi đàn đáy một thời như các cụ: Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Văn Hoan. Hiện Nguyễn Văn Tuyến được đánh giá là một trong những kép đàn hay nhất của nước ta.
Nói đến ca trù Lỗ Khê, không thể không nói đến cụ Hoàng Kỷ, người được xem như "giá đỡ" cho quá trình khôi phục. Gần 20 năm trước, chính cụ Hoàng Kỷ là người đem sổ sách, bút mực đi đến tận nhà từng nghệ nhân gạo cội trong làng ghi chép cẩn thận từng làn điệu ca trù cổ. Vốn biết chữ Hán, cho nên cụ tìm tòi thêm trong các văn bản cũ về nghệ thuật ca trù rồi phiên âm ra tiếng Việt. Từ đó, cụ soạn ra những tài liệu về lịch sử ca trù Lỗ Khê, về các làn điệu. Các tài liệu cụ biên soạn gồm: Ca trù Hát cửa đình (các bài hát của giáo phường xưa), sưu tầm được 40 thể loại bài hát với nội dung còn nguyên vẹn; các bài múa ca trù, sưu tầm ghi chép được 12 bài múa theo thể loại cổ, như: múa tiên, múa bỏ bộ, múa tứ linh... Cũng chính qua những nghiên cứu của cụ Hoàng Kỷ mà các nhà nghiên cứu xác định đặc trưng nổi bật của Lỗ Khê là hát cửa đình (hát thờ). Ðặc trưng này hình thành do Lỗ Khê chính là cái nôi sinh ra ca trù, có đền thờ tổ hát ca trù.
Nói về sự phát triển của ca trù, ông Nguyễn Văn Nhuệ - người đánh trống chầu, đồng thời là Phó Giáo phường ca trù Lỗ Khê cho biết: "Chúng tôi rất tự hào về lớp nghệ nhân "chín" sớm như anh Tuyến, chị Thảo, chị Mận. Có thể nói, các anh chị ấy giờ đã thành thầy cho lớp nghệ nhân kế cận rồi. Là đất tổ ca trù, cho nên Lỗ Khê có nhiều cháu mới học phổ thông mà đã hát rất hay. Nhưng thực tình, nói về sự phát triển lâu dài, chúng tôi rất lo". Nỗi lo của người từng có gần 20 năm gắn bó với ca trù Lỗ Khê bắt đầu từ việc nhiều bậc phụ huynh không muốn cho con em mình học hát ca trù. Thế hệ trước gồm các cụ Phạm Thị Mùi, Nguyễn Văn Hành, cho đến thế hệ sau như các nghệ nhân Nguyễn Văn Tuyến, Phạm Thị Mận, Nguyễn Phương Thảo đều không sống được bằng việc đi hát. Một số nghệ nhân có cuộc sống hết sức khó khăn. Trong khi đó, học hát ca trù đòi hỏi rất nhiều công phu. Ngoài năng khiếu, một học viên phải học đến sáu, bảy năm mới bắt đầu hát thành thục những bài cơ bản. Khi đã "mở xiêm áo" (được phép biểu diễn chính thức), vẫn còn liên tục học tập, rèn luyện để hoàn thiện kỹ thuật hát. Rất nhiều bậc phụ huynh sợ các cháu "say" ca trù quá, lỡ mất việc học hành. Ðặc biệt là khu vực Lỗ Khê đang trên đà phát triển, nhiều người lo ngại sau này ruộng đất biến thành khu công nghiệp, nếu không học lên cao thì không có việc làm, cho nên việc dạy ca trù cho thế hệ trẻ gặp rất nhiều trở ngại.
Lỗ Khê nằm ở xa trung tâm thành phố, việc biểu diễn phục vụ khách du lịch là điều mà chưa nghệ nhân nào dám nghĩ đến. Hy vọng về việc ca trù có thể đem lại thu nhập là điều quá xa vời. Bởi thế, cùng với những hình thức bảo tồn, tạo điều kiện cho ca trù biểu diễn, các thế hệ nghệ nhân ở địa phương mong thành phố có chính sách đãi ngộ nghệ nhân, chỉ như thế, ca trù nói chung, và ca trù Lỗ Khê nói riêng mới có thể tồn tại và phát triển.