Phóng viên (PV): Việc ghi nhãn tên hàng hóa các sản phẩm sữa dê cho trẻ em với nhãn hiệu Danlait mà Cục ATTP đã phê duyệt có vấn đề gì khiến dư luận và người tiêu dùng quan tâm?
Bác sĩ Nguyễn Văn Dũng (BS NVD): Việc ghi nhãn tên hàng hóa thực hiện theo Nghị định số 89/2005/NÐ-CP của Chính phủ, riêng các sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ nhỏ còn theo Nghị định số 21/2006/NÐ-CP của Chính phủ và Luật An toàn thực phẩm. Theo đó, tên hàng hóa do tổ chức, cá nhân tự đặt miễn sao không gây hiểu nhầm bản chất của sản phẩm. Tên hàng hóa thường gồm tên sản phẩm kèm theo nhãn hiệu hoặc thương hiệu của doanh nghiệp. Bản chất của hàng hóa là thực phẩm, thường được hiểu thông qua tên sản phẩm hoặc thành phần cấu tạo của sản phẩm. Tuy nhiên, đối với thực phẩm nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp thường chỉ đặt nhãn hiệu cho hàng hóa và đưa công dụng, tính chất hoặc đối tượng lên nhãn để thể hiện bản chất, mục đích của sản phẩm.
Vì tên hàng hóa là do doanh nghiệp tự đặt, cho nên có khi không đúng bản chất sản phẩm. Thí dụ, sản phẩm Ensure không phải là sữa. Hoặc sữa đậu nành là tên dân quen dùng trong khi sản phẩm tương tự từ đậu đen lại gọi là "Chè đậu đen" lại thể hiện đúng bản chất sản phẩm? Còn các cơ quan quản lý bản chất sản phẩm theo phân nhóm và nhóm sản phẩm. Thí dụ, sản phẩm dinh dưỡng công thức là sản phẩm có thể thay thế bữa ăn đầy đủ về tỷ lệ hợp lý các chất sinh ca-lo cho đối tượng mà nhà sản xuất công bố trên nhãn. Nhưng nếu thiếu cụm từ "công thức" thì sản phẩm phải được áp vào nhóm cao hơn nhưng chung chung hơn như thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, thực phẩm bổ sung. Trong trường hợp đã phê duyệt các sản phẩm Danlait cho trẻ nhỏ từ 0 đến 36 tháng tuổi, cục đã phê duyệt cả cụm từ: "Thực phẩm bổ sung: Sữa dê bột Danlait dành cho trẻ từ... tháng tuổi", trong đó cụm từ "thực phẩm bổ sung" là phân loại nhóm sản phẩm, từ "Danlait" là nhãn hiệu hàng hóa và các cụm từ tiếp theo "dành cho trẻ... tháng tuổi" là chỉ đối tượng sử dụng. Ðúng ra, có thể xếp nhóm nhỏ hơn theo NÐCP số 21 là "Sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ nhỏ" để thay thế cho cụm từ "Thực phẩm bổ sung" nhưng trong tên sản phẩm đã chỉ ra đối tượng sử dụng trẻ nhỏ rồi thì việc phê duyệt như vậy sẽ gọn hơn. Và người tiêu dùng vẫn hiểu đúng bản chất của sản phẩm. Tên nhóm chỉ cần cho các cơ quan quản lý nhà nước. Tên sữa dê đã chỉ rõ bản chất sản phẩm có thành phần chính nguồn gốc động vật, cụ thể là dê. Các sản phẩm công thức khác, nếu có thành phần chính là sữa bò thì văn dịch cũng gọi là sữa hoặc sữa bò, chứ không gọi là sản phẩm có nguồn gốc là sữa bò. Các sản phẩm dinh dưỡng không có thành phần chính là sữa bò nhưng có đạm sữa bò thì trong tên sản phẩm không có tên sữa. Vì vậy, có nhiều cách đặt tên khác nhau!
Chúng ta đều biết, đối với các sản phẩm sữa, Luật ATTP phân công trách nhiệm cho ba bộ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý sữa tươi nguyên liệu, Bộ Công thương quản lý sữa bột, còn Bộ Y tế quản lý các sản phẩm sữa là thực phẩm bổ sung. Ðó là lý do có nhiều cách hiểu khác nhau trong công luận và các cơ quan có thẩm quyền của các bộ, ngành. Người tiêu dùng ít quan tâm đến tên nhóm sản phẩm.
PV: Theo ông, các quy chuẩn quốc gia về các sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ từ 0 đến 36 tháng tuổi do Bộ Y tế mới ban hành có là điều kiện cho các doanh nghiệp lách luật để giảm thuế nhập khẩu và tránh đăng ký giá?
BS NVD: Các quy chuẩn nói trên đều được xây dựng trên cơ sở chuyển dịch các tiêu chuẩn quốc tế CODEX, do Ủy ban Tiêu chuẩn hóa thực phẩm quốc tế do Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức Nông lương thế giới đồng làm chủ tịch. Các tiêu chuẩn CODEX đều phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Có sự khác nhau rõ rệt về công dụng và đối tượng sử dụng của sữa bột với nhóm sản phẩm dinh dưỡng, trong đó có sữa bột công thức. Tên gọi sữa bột theo tiêu chuẩn quốc gia và TCVN là chỉ sữa tươi nguyên chất được làm khô hay còn gọi là sữa bột nguyên liệu, được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong chế biến thực phẩm. Sản phẩm sữa bột công thức hay sản phẩm dinh dưỡng nói chung bao giờ cũng đa dạng thành phần cấu tạo hơn, trong đó có bổ sung thêm vi chất dinh dưỡng, vì vậy, hàm lượng chất xám và công nghệ cũng cao hơn các sản phẩm nguyên liệu đơn chất.
Việc xác định mã số HS để áp thuế nhập khẩu cần căn cứ vào bản chất của hàng hóa và có khi cần phải trưng cầu giám định thành phần. Trong bảy cơ quan quản lý và kiểm tra về chất lượng, an toàn và về thuế, hải quan chỉ có một cơ quan là Trung tâm Thú y vùng 2 đặt tên đối với Sữa dê Danlait là "Sữa dê bột đóng hộp" mà thiếu đối tượng kèm theo như "... dành cho trẻ...". Vì vậy, việc lách luật để giảm thuế là rất khó xảy ra.
Việc đăng ký giá cần căn cứ vào danh mục biểu thuế xuất nhập khẩu theo mã số HS. Bộ Y tế không có trách nhiệm xác định mã số HS. Ðó là trách nhiệm của các cơ quan thuế và hải quan.
PV: Ông có đề xuất gì trong tương lai với các chính sách quản lý hiện hành nhằm bình ổn giá sữa cho các đối tượng là trẻ nhỏ có cơ hội được dùng các sản phẩm đúng chất lượng?
BS NVD: Tôi không dám đề xuất một giải pháp toàn diện và quá vĩ mô. Nguyên nhân ảnh hưởng việc tăng giá sữa có nhiều lý do, chủ yếu từ phía doanh nghiệp thay đổi công thức, mẫu mã,... và thị trường các nguyên liệu cấu thành không ổn định. Khi có một doanh nghiệp "chết" hoặc "bị thương" thì theo quy luật "cung - cầu", các doanh nghiệp khác sẽ nhảy vào thị phần bỏ trống và tăng giá. Ðó là một lý do? Có một lý do nữa là: các sản phẩm sữa đã qua chế biến tiệt trùng vẫn phải qua kiểm dịch thú y dù không cần thiết (đã qua kiểm nghiệm an toàn thực phẩm trước khi công bố và kiểm tra nhà nước khi về đến Việt Nam).
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, nhiều dự án và chính sách đơn ngành, liên ngành được tập trung cho bình ổn giá chưa phù hợp với quy luật tự nhiên của thị trường. Chi phí để nuôi các hoạt động này có thể còn lớn hơn việc chúng ta có thể thu thuế để bù lại. Mọi chi phí của doanh nghiệp đều được tính vào giá thành sản phẩm. Người tiêu dùng đương nhiên là người cuối cùng phải gánh chịu?
Việt Nam cần cải thiện chiều cao cho thế hệ trẻ mà sữa là một sản phẩm đã được nhận định là rất quan trọng trong dinh dưỡng của trẻ em. Giảm thuế cho các sản phẩm sữa dinh dưỡng dùng riêng cho trẻ em có thể sẽ là một giải pháp có hiệu quả và khả thi hơn trong khi các giải pháp khác chưa thống nhất và đồng bộ.
PV: Cảm ơn ông !