Thực hiện Pháp lệnh Dân số:

Hiểu đúng về quyền sinh sản

Trước hết, cần phải khẳng định nội dung của Pháp lệnh Dân số vẫn quy định việc tiếp tục thực hiện các biện pháp để điều chỉnh quy mô dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên, môi trường thông qua chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình để điều chỉnh mức sinh và ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý và đó là một trong những biện pháp để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Pháp lệnh Dân số được ban hành để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong công tác dân số; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường, thống nhất quản lý nhà nước về dân số. Việc quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình (tại Điều 10) và quyền và nghĩa vụ của công dân về công tác dân số (tại Điều 4) chính là nhằm nhấn mạnh sự gắn kết giữa quyền và nghĩa vụ của công dân và nâng cao trách nhiệm của công dân trong công tác dân số. Đúng là tại điểm a khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh Dân số quy định:

"1. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền:

a. Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng;".

Quyền quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân không đồng nhất với việc mỗi cá nhân và mỗi cặp vợ chồng tùy tiện sinh con sớm, sinh dày và sinh bao nhiêu con tùy theo ý muốn chủ quan của họ. Pháp luật dành cho mỗi cặp vợ chồng và cá nhân quyền quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh, nhưng đây là một quyền có điều kiện.

Khi nói đến quyền là bao hàm cả ý nghĩa nghĩa vụ, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân nhưng đồng thời phải đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Một người không thể chỉ đòi hỏi quyền mà không chịu thực hiện nghĩa vụ, ngược lại không một ai chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ mà không được hưởng quyền lợi. Nghĩa vụ của mỗi công dân là thực hiện đúng, đủ các quy định của pháp luật về công tác dân số và được hưởng tất cả những quyền mà pháp luật đã quy định. Theo quy định của pháp luật mỗi người chúng ta có quyền sinh sản, có quyền được cung cấp thông tin về dân số cũng như các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được lựa chọn các biện pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng dân số...

Nhưng đồng thời, cũng theo quy định của pháp luật, mỗi người chúng ta cần phải:

- "Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình" (điểm c khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh). Kế hoạch hóa gia đình là "nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khỏe, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình" (khoản 9 Điều 3 Pháp lệnh).

- "Thực hiện kế hoạch hóa gia đình; xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững;" (điểm a khoản 2 Điều 4).

- "Tôn trọng lợi ích của Nhà nước, xã hội, cộng đồng trong việc điều chỉnh quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư nâng cao chất lượng dân số;" (điểm a khoản 2 Điều 4).

- "Thực hiện các quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến công tác dân số" (điểm d khoản 2 Điều 4).

Các quy định của pháp luật khác có liên quan đến công tác dân số là:

- Điều 40 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001: "Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình".

- Khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989: "Mọi người có trách nhiệm thực hiện kế hoạch hóa gia đình, có quyền lựa chọn biện pháp sinh đẻ có kế hoạch theo nguyện vọng. Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến hai con".

- Khoản 3 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: "Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình".

Như vậy, bên cạnh quyền quyết định số con, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân phải tuân thủ mục tiêu chính sách dân số là "duy trì mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con để ổn định quy mô dân số, bảo đảm cơ cấu dân số và phân bổ dân cư hợp lý, nâng cao chất lượng dân số" (Điều 4 Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16-9-2003). Việc thực hiện quyền phải gắn liền với nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình:

"1. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân không tách rời nhau trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Mỗi cặp vợ chồng, cá nhân có trách nhiệm thực hiện quyền và phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.

2. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền:

a. Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với quy mô gia đình ít con, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chính sách dân số của Nhà nước trong từng giai đoạn; phù hợp với lứa tuổi tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng.

b. Lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khỏe, tâm lý và các điều kiện khác;

c. Được cung cấp thông tin và dịch vụ về kế hoạch hóa gia đình.

3. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ:

a. Thực hiện quy mô gia đình ít con - có một hoặc hai con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững;

b. Sử dụng biện pháp tránh thai, thực hiện kế hoạch hóa gia đình;

c. Tôn trọng lợi ích của Nhà nước, xã hội, cộng đồng và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức trong việc kiểm soát sinh sản và điều chỉnh quy mô dân số;

d. Thực hiện các quy định của pháp luật về dân số; các quy chế, điều lệ, hoặc hình thức khác của cơ quan, tổ chức; quy ước, hương ước của cộng đồng về dân số và kế hoạch hóa gia đình;

e. Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình".

Như vậy trong vấn đề quyền sinh sản nhấn mạnh hai mặt của vấn đề, đó là tự do (có quyền quyết định số con, khoảng cách giữa các lần sinh, thời điểm sinh và quyền được cung cấp thông tin và phương tiện để đạt được nhu cầu sinh sản) nhưng phải có trách nhiệm) trách nhiệm trước đứa trẻ được sinh ra trong cả hiện tại và tương lai, trách nhiệm trước gia đình và cộng đồng).

Tóm lại, việc thực hiện quy định quyền và nghĩa vụ trong công tác dân số được quy định trong Pháp lệnh Dân số ở đây phải được thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện chứ không phải là thực hiện một điểm, một khoản, một điều chỉ liên quan đến yếu tố quyền của công dân, của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân.

Sinh sản là việc riêng tư của mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng nhưng sinh sản lại có ảnh hưởng trực tiếp đến từng cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Năm 1960, dân số nước ta là 30 triệu người, bình quân mỗi cặp vợ chồng sinh khoảng 6 con, nếu Nhà nước không có chính sách dân số để điều chỉnh việc phát triển dân số phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội và tính một cách thô thiển với tỷ lệ phát triển dân số hằng năm là 3% thì đến nay dân số nước ta khoảng 100 triệu người và sẽ ổn định ở mức gần 300 triệu người.

Thực tế dân số nước ta hiện nay là 82 triệu người và nếu thực hiện tốt công tác dân số thì sẽ ổn định ở mức 115 triệu người. So sánh hai con số đó mới thấy ý nghĩa của việc sinh sản. Rõ ràng, xét trên góc độ nào thì việc sinh sản cũng cần được kiểm soát, cần ước tính toán khi quyết định số con của mỗi cặp vợ chồng. Vì vậy, mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng khi thực hiện quyền sinh sản đồng thời cũng phải làm tròn nghĩa vụ thực hiện mục tiêu của chính sách dân số quốc gia trong gia đình mình, đó là mỗi gia đình chỉ nên có 1 hoặc 2 con, không kết hôn sớm, giãn khoảng cách giữa các lần sinh từ 3 đến 5 năm.

Có thể bạn quan tâm