Giai đoạn 2023-2025: Gần 6,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn

Trong giai đoạn 2023-2025, đã có gần 6,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn, với tổng doanh số cho vay đạt hơn 360 nghìn tỷ đồng.

Giải ngân vốn vay cho hộ mới thoát nghèo tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh VPSP)
Giải ngân vốn vay cho hộ mới thoát nghèo tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh VPSP)

Thông tin từ Ngân hàng Chính sách xã hội cho biết, đến ngày 30/11/2025, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt hơn 422 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 12,2%. Trong đó, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội đạt gần 65 nghìn tỷ đồng, tỷ trọng nguồn vốn ủy thác chiếm 15,1% trên tổng nguồn vốn tín dụng.

Cơ chế, chính sách về tín dụng chính sách xã hội được hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn, cơ bản bao phủ các mặt đời sống, đa dạng mục đích vay vốn, đối tượng thụ hưởng chính sách bao phủ các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội và ngày càng mở rộng… phù hợp với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, tập trung vào những lĩnh vực mà các tổ chức tài chính hoạt động theo nguyên tắc thị trường không thể đáp ứng hoặc chỉ đáp ứng được một phần. Tổng dư nợ tín dụng chính sách đến hết tháng 11/2025 đạt hơn 409 nghìn tỷ đồng, bình quân tăng trưởng dư nợ hằng năm đạt 13,1%, với hơn 6,7 triệu khách hàng còn dư nợ.

Cũng theo cơ quan này, trong giai đoạn 2023-2025, đã có gần 6,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn, với tổng doanh số cho vay đạt hơn 360 nghìn tỷ đồng.

Nguồn vốn chính sách đã góp phần thu hút, tạo việc làm cho gần 2,3 triệu lao động; giúp hơn 240 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng hơn 4,7 triệu công trình nước sạch, vệ sinh ở nông thôn; gần 31 nghìn căn nhà ở xã hội và gần 5.500 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách.

Đặc biệt, trong hai năm 2022-2023, Ngân hàng Chính sách xã hội đã hoàn thành 100% kế hoạch được giao về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn sau đại dịch Covid-19, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Bên cạnh đó, các cấp Công đoàn Ngân hàng Chính sách xã hội đã tích cực tổ chức thực hiện hoạt động an sinh xã hội, thể hiện trách nhiệm với xã hội, vì cuộc sống cộng đồng. Tổng kinh phí dành cho các hoạt động này đạt gần 134 tỷ đồng, trong đó chủ yếu tập trung hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo, đối tượng chính sách, gia đình người có công; tặng quà hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách.

img-2689-8484.jpg
Khách hàng giao dịch tại Điểm giao dịch xã của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Văn Quan. Lạng Sơn. (Ảnh nhandan.vn)

Hiện nay, tại Ngân hàng Chính sách xã hội đang triển khai một số chương trình tín dụng chính sách với hộ nghèo, hộ cận nghèo. Cụ thể như:

Chính sách cho vay hộ nghèo theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ, với mức cho vay tối đa là 100 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay là 6,6%/năm.

Chính sách cho vay hộ cận nghèo theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ với mức cho vay tối đa là 100 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay bằng 120% lãi suất cho vay đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định, hiện nay là 7,92%/năm.

Chính sách cho vay hộ mới thoát nghèo theo Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ với mức cho vay tối đa là 100 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay bằng 125% lãi suất cho vay đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định, hiện nay là 8,25%/năm.

Tuy nhiên, từ ngày 1/12/2025, thực hiện Quyết định số 2553/QĐ-TTg ngày 21/11/2025 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội giảm lãi suất cho vay chương trình hộ nghèo và một số chương trình tín dụng chính sách đang được đơn vị này triển khai như sau:

Thứ nhất, lãi suất cho vay hộ nghèo; cho vay học sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/2007; cho vay người lao động đi làm việc ở nước ngoài; cho vay người chấp hành xong án phạt tù được điều chỉnh giảm từ 6,6%/năm (tương đương 0,55%/tháng) xuống còn 6,24%/năm (tương đương 0,52%/tháng).

Thứ hai, lãi suất cho vay hộ cận nghèo; cho vay giải quyết việc làm được điều chỉnh giảm từ 7,92% (tương đương 0,66%/tháng) xuống còn 7,488%/năm (tương đương 0,624%/tháng).

Thứ ba, lãi suất cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn; cho vay thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn được điều chỉnh giảm từ 9,0%/năm (tương đương 0,75%/tháng) xuống còn 7,8%/năm (tương đương 0,65%/tháng).

Thứ tư, lãi suất cho vay hộ mới thoát nghèo được điều chỉnh giảm từ 8,25%/năm (tương đương 0,825%/tháng) xuống còn 7,8%/năm (tương đương 0,65%/tháng).

Thứ năm, lãi suất cho vay thực hiện cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được điều chỉnh giảm từ 9,0%/năm (tương đương 0,75%/tháng) xuống còn 8,4%/năm (tương đương 0,70%/tháng).

Thứ sáu, lãi suất cho vay phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; cho vay người lao động tại huyện nghèo đi xuất khẩu lao động được điều chỉnh giảm từ 3,3%/năm (tương đương 0,275%/tháng) xuống còn 3,12%/năm (tương đương 0,26%/tháng).

Thứ bảy, lãi suất cho vay hỗ trợ đất sản xuất, chuyển đổi nghề được điều chỉnh giảm từ 3,3%/năm (0,275%/tháng) xuống còn 3,12%/năm (0,26%/tháng); cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị đối với hộ nghèo giảm từ 3,3%/năm (0,275%/tháng) xuống còn 3,12%/năm (0,26%/tháng), đối với hộ cận nghèo, doanh nghiệp, hợp tác xã giảm từ 3,96%/năm (0,33%/tháng) xuống còn 3,744%/năm (0,312%/tháng).

Mức lãi suất mới của các chương trình tín dụng chính sách nêu trên chính thức được áp dụng từ ngày 1/12/2025 đối với khoản vay còn dư nợ tại Ngân hàng Chính sách xã hội.

Việc điều chỉnh giảm lãi suất đối với các chương trình tín dụng chính sách hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội thể hiện sự vào cuộc kịp thời và nhân văn của Đảng, Nhà nước trong việc lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân, góp phần hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống, yên tâm khôi phục sản xuất, kinh doanh, nhất là trong bối cảnh mưa bão, lũ lụt thời gian qua gây thiệt hại nặng nề tại nhiều địa phương trên cả nước. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của tín dụng chính sách trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho người dân.

Được biết, riêng trong năm ngoái, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội đến hết ngày 31/12/2024 đạt 376.247 tỷ đồng, tăng 29.823 tỷ đồng so với năm 2023. Trong đó, vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 50.681 tỷ đồng, tăng 11.506 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,5%.

Nguồn vốn nhận ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội bao gồm vốn ủy thác theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 2.141 tỷ đồng tại 20 chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, thành phố (theo đơn vị hành chính cũ)

Tổng doanh số cho vay đạt 119.507 tỷ đồng, với hơn 2,3 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn. Tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 367.631 tỷ đồng, tăng 35.708 tỷ đồng (tăng 10,8%) so với năm 2023 với gần 6,8 triệu khách hàng còn dư nợ.

Trong đó, dư nợ cho vay sản xuất kinh doanh đạt 263.293 tỷ đồng, chiếm 71,6% tổng dư nợ, tập trung vào các chương trình như cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, dư nợ cho vay sinh hoạt, đời sống đạt 104.387 tỷ đồng, chiếm 28,4%, hỗ trợ các mục tiêu như nước sạch, vệ sinh môi trường, xây nhà ở xã hội và giáo dục.

Ngân hàng Chính sách xã hội đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Chỉ riêng với chương trình cho vay giảm nghèo bền vững, dư nợ cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo đạt 140.423 tỷ đồng, chiếm 38,2% tổng dư nợ, hỗ trợ hơn 2,8 triệu hộ.

PV

Có thể bạn quan tâm