Ðiện phải đi trước một bước. Ðó là quan điểm nhất quán, đúng đắn đã được đề ra từ rất sớm trong các nghị quyết của Ðảng. Trước thời kỳ đổi mới, trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù nền kinh tế còn có nhiều khó khăn, chúng ta đã quan tâm đầu tư phát triển nguồn và lưới điện. Các công trình nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà; nhiệt điện Uông Bí, Phả Lại, Thái Nguyên, Ninh Bình... đã được khởi công xây dựng, đưa vào vận hành, cung cấp nguồn năng lượng quan trọng cho sản xuất, đời sống và chiến đấu. Ðến năm 1986, công suất các nhà máy điện 1.711 MW, sản lượng điện 5.527 triệu kW giờ, điện thương phẩm 4.146 triệu kW giờ. Với nguồn điện khiêm tốn nhưng rất quý này đã góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của chúng ta.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nhất là trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, nhu cầu về điện phục vụ sự phát triển kinh tế, đời sống tăng nhanh, đòi hỏi sự phát triển vượt bậc cả về nguồn, đường dây và các trạm biến áp điện. Trong năm năm 2001 - 2005, ngành điện huy động vốn từ nhiều nguồn, đã đầu tư 92.100 tỷ đồng xây dựng nguồn và lưới điện, đưa vào vận hành sáu nhà máy điện lớn với tổng công suất 3.300 MW, 65 nghìn km đường dây cao, trung, hạ thế và hơn 38 nghìn MVA dung lượng trạm biến thế với các cấp điện áp khác nhau. Cùng với đường dây 500 kV bắc - nam mạch 1 dài 1.448 km, đã xây dựng xong trong một thời gian ngắn đường dây 500 kV bắc - nam mạch 2, dài hơn 1.500 km. Nhờ đó, nguồn điện ở cả hai miền nam - bắc cùng hòa lưới điện quốc gia, dẫn đến mọi miền Tổ quốc, làm bật dậy những tiềm năng về kinh tế - xã hội. Ðể khắc phục có hiệu quả tình trạng thiếu điện cục bộ, cung cấp đủ điện cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội các năm tới, ngành điện đã và đang phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, tự lực vươn lên xây dựng mới 23 nhà máy điện với tổng công suất 8.000 MW. Không lâu nữa, trên các dòng sông Ðà, Lô, Gâm, Mã, Thu Bồn, Ðồng Nai, Sê San, Ba Hạ... lần lượt mọc lên 20 nhà máy thủy điện. Nguồn "năng lượng trắng" này sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cải thiện đời sống người dân ở những vùng khó khăn. Nổi lên trong chiến lược phát triển năng lượng giai đoạn 2001-2010 là đầu tư xây dựng hai khu công nghiệp điện lực lớn là Trung tâm điện lực Phú Mỹ và công trình thủy điện Sơn La. Trung tâm điện lực Phú Mỹ đã đưa vào vận hành, gồm năm nhà máy điện tua-bin khí, có công suất 4.000 MW, gấp hai lần thủy điện Hòa Bình, thiết bị hiện đại, công nghệ cao, sử dụng 10 tỷ m3 khí, trong đó có 6 tỷ m3 khí đồng hành trước đây Tổng công ty Dầu khí đốt bỏ, tiết kiệm nửa tỷ USD. Công trình thủy điện Sơn La trên sông Ðà lớn nhất Ðông-Nam Á đã thực hiện 50% khối lượng công việc. Ngày 2-12-2005, công trình thực hiện việc ngăn sông, sẽ đưa vào vận hành từ năm 2010, sớm hai năm so với chỉ tiêu Quốc hội giao, bổ sung thêm 20 tỷ kW giờ, có doanh thu hơn một tỷ USD/năm. Ðến nay công suất, sản lượng, điện thương phẩm của ngành điện tăng từ sáu đến 12 lần so với năm 1986. Ðã có 90,4% số hộ nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia. Ánh sáng điện, ánh sáng của Ðảng, Bác Hồ đã đến các bản làng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Chỉ tiêu này cao hơn nhiều nước trong khu vực có tiềm lực kinh tế khá hơn nước ta; thể hiện sự quan tâm của Ðảng và tính ưu việt của chế độ của chúng ta. Tháng 9-2003, sau khi nghe báo cáo về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện Việt Nam, Bộ Chính trị đã ra kết luận, nêu rõ: "Trong thời gian qua, ngành điện Việt Nam đã có nhiều cố gắng, có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Ðã đáp ứng cơ bản nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước".
Thành tựu của ngành điện đạt được là kết quả của nhiều yếu tố, mà nổi bật là khai thác cao độ nguồn nội lực và năng động, sáng tạo trong đổi mới cơ chế quản lý, điều hành. Cho đến nay, ngành điện nước ta chưa có một đối tác nước ngoài nào vào đầu tư, liên doanh sản xuất, kinh doanh điện. Ðây là khó khăn rất lớn, buộc ngành điện phải tự thân vận động để phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, ngành điện sắp xếp, đổi mới hoạt động của tổng công ty theo hướng xây dựng tập đoàn kinh tế mạnh, sản xuất kinh doanh đa ngành, lấy nhiệm vụ sản xuất, cung ứng điện là trọng tâm. Ðể có vốn đầu tư, đổi mới quản lý, ngành điện tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp. Ðã cổ phần hóa xong 17 đơn vị, thu về 1.500 tỷ đồng, đang cổ phần hóa 42 đơn vị trong năm 2006 và đẩy mạnh cổ phần hóa các năm tiếp theo. Thực hiện có hiệu quả xã hội hóa nguồn điện, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, kêu gọi các tổ chức kinh tế ngoài ngành, các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy điện mới. Các ngành than, xây dựng đã, đang tích cực tham gia đầu tư bổ sung thêm nguồn điện mới. Sử dụng có hiệu quả vốn vay, vốn cấp và phát hành trái phiếu trong và ngoài nước. Ngoài thủy điện, nhiệt điện, khai thác các nguồn năng lượng mới như khí, gió, mặt trời, thủy triều và năng lượng nguyên tử vào sản xuất điện. Hợp tác với các nước láng giềng hình thành thị trường điện lực khu vực.
Ðội ngũ cán bộ, công nhân và các doanh nghiệp cơ khí, chế tạo vật tư, thiết bị điện trong những năm qua đã có những tiến bộ đáng kể, vươn lên làm chủ các dự án, tư vấn và chế tạo thiết bị chất lượng cao, thay thế nhập khẩu. Ðã sản xuất được cột điện, dây cáp điện đến cấp điện áp 500 kV và các máy biến áp 220 kV. Ðã chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện. Ðến nay ta chỉ còn nhập khẩu tua-bin, máy phát, hệ thống điều khiển, thiết bị đóng cắt điện. Nguồn nhân lực của tổng công ty ngày càng được nâng cao về chất lượng, có khả năng tiếp thụ, làm chủ kỹ thuật, công nghệ mới. 50 nghìn lượt cán bộ, công nhân được đào tạo, bồi dưỡng nghề, trong đó có hàng trăm thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành khác nhau. Từ chỗ trước đây phải thuê tư vấn nước ngoài, đến nay đã tự quản lý, chế tạo, thiết kế toàn bộ dự án đường dây và trạm biến áp, kể cả đường dây và trạm 500 kV mạch 2; làm tư vấn chính tất cả các dự án nguồn điện lớn, nhỏ, kể cả thủy điện Sơn La.
Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi các công trình điện phải hoàn thành nhanh, trong khi đó, theo thông lệ các công trình này thường phải kéo dài vài năm so với các công trình công nghiệp khác, bởi vì phải thực hiện các hạng mục công việc như xây dựng đường, điện, nước, thông tin liên lạc, giải phóng mặt bằng, rà phá bom mìn, tái định cư...
Khắc phục khó khăn này, được phép của Thủ tướng Chính phủ, ngành điện đã thực hiện cơ chế thông thoáng 797/CP-CN, cho phép thực hiện công trình thủy điện làm hai giai đoạn chuẩn bị và thi công nhà máy. Sau khi có báo cáo khả thi là khởi công xây dựng công trình ngay. Ðổi mới cơ chế đấu thầu theo hướng đưa nhanh công trình vào sử dụng, rút ngắn thời gian thi công và phát huy được lợi thế của doanh nghiệp Việt Nam. Nhờ đó, các công trình từ năm 2003 đến nay được hoàn thành sớm hơn trước từ 1,5 đến hai năm, tạo thuận lợi cho các nhà thầu trong nước trúng thầu, giải quyết việc làm, thu nhập cho hàng chục nghìn lao động.
Dự thảo Nghị quyết Ðại hội lần thứ X của Ðảng, nêu rõ: "Phát triển nhanh nguồn điện với cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả, đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo".
Thực hiện định hướng và mục tiêu nêu trên, tập thể những người lao động trong ngành điện mà nòng cốt là 12 nghìn đảng viên đã và đang cụ thể hóa thành các chương trình hành động, hăng say lao động sản xuất, công tác, biến chủ trương, đường lối của Ðảng thành hiện thực trong cuộc sống, sản xuất thêm nhiều điện cho Tổ quốc, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước.