Hơn 3.500 chủ hộ kinh doanh đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ghi nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của chủ hộ kinh doanh đã tham gia trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 có hiệu lực thi hành để làm căn cứ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội đang được lấy ý kiến rộng rãi trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
Với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành, chủ hộ kinh doanh không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay, cơ quan bảo hiểm xã hội các địa phương đã thực hiện thu bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, cơ quan xây dựng dự thảo, cho biết, tại Nghị quyết số 142/2024/QH15 ngày 29/6/2024 của Quốc hội về Nghị quyết Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã giao Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ghi nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của chủ hộ kinh doanh đã tham gia trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 có hiệu lực thi hành để làm căn cứ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và Nghị quyết số 100/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.
Như vậy, việc quy định ghi nhận thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của chủ hộ kinh doanh trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 có hiệu lực thi hành để làm căn cứ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội là cần thiết và có căn cứ. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người lao động nói chung và chủ hộ kinh doanh nói riêng, bảo đảm đúng nguyên tắc đóng-hưởng. Đây là cơ sở quan trọng để từng bước thực hiện các mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân theo các nghị quyết của Đảng.
Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 của Chính phủ, Luật Bảo hiểm xã hội các năm 2006 và 2014 đều không quy định chủ hộ kinh doanh thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; từ năm 2008 trở đi, nếu có nhu cầu thì chủ hộ kinh doanh có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành, chủ hộ kinh doanh không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay, cơ quan bảo hiểm xã hội các địa phương đã thực hiện thu bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến hết ngày 31/5/2023, có 3.567 chủ hộ kinh doanh tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Số tiền đã đóng vào Quỹ Bảo hiểm xã hội khoảng 113 tỷ đồng; có 9.648 lượt chủ hộ kinh doanh đã được giải quyết và chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, với số tiền là 13,28 tỷ đồng; có 1 người được giải quyết, chi trả chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, số tiền là 21,55 triệu đồng; có 275 người được giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất, số tiền là 32,840 tỷ đồng; có 397 người được giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần, số tiền là 9,328 tỷ đồng.
Tính đến hết ngày 31/5/2023, có 3.567 chủ hộ kinh doanh tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Số tiền đã đóng vào Quỹ Bảo hiểm xã hội khoảng 113 tỷ đồng.
Việc cơ quan bảo hiểm xã hội đã thực hiện thu bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh là không đúng quy định pháp luật. Về nguyên tắc, nếu thu bảo hiểm xã hội bắt buộc không đúng quy định pháp luật thì phải hoàn trả tiền đóng bảo hiểm xã hội đã thu không đúng.
Tuy nhiên, việc hoàn trả tiền đóng bảo hiểm xã hội trong trường hợp này có một số bất cập, hạn chế sau đây.
Thứ nhất, những chủ hộ kinh doanh này đã được cơ quan bảo hiểm xã hội thu bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời gian dài;
Thứ hai, có nhiều người đã được giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ ba, hoàn trả tiền đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đồng thời cũng sẽ phải thu hồi số tiền đã giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội là khá phức tạp, không bảo đảm quyền lợi của các chủ hộ, nhiều người đã đến tuổi nghỉ hưu.
Thứ tư, không phù hợp chủ trương của Nghị quyết số 28-NQ/TW, quy định của Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 về mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh.
Chính vì vậy, về cơ bản, các cơ quan liên quan đều thống nhất với chủ trương giải quyết theo hướng ghi nhận thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để tính hưởng bảo hiểm xã hội đối với chủ hộ kinh doanh.
Giải quyết những hạn chế, vướng mắc
Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, mục tiêu xây dựng dự thảo Nghị quyết này nhằm giải quyết hạn chế, vướng mắc trong thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh thời gian qua. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý trong việc thực hiện thu và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh trong giai đoạn trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 có hiệu lực thi hành.
Cùng với đó, đáp ứng nguyện vọng và bảo đảm quyền lợi cho các chủ hộ kinh doanh, góp phần mở rộng bao phủ đối tượng tham gia và đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội.
Quan điểm xây dựng Nghị quyết nhằm tháo gỡ các vướng mắc, hạn chế bất cập phát sinh trong thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm quyền lợi trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng của chủ hộ kinh doanh.
Dự thảo Nghị quyết đáp ứng nguyện vọng và bảo đảm quyền lợi cho các chủ hộ kinh doanh, góp phần mở rộng bao phủ đối tượng tham gia và đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội.
Bảo đảm nguyên tắc đóng-hưởng và thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội.
Phù hợp chủ trương và định hướng mở rộng bao phủ đối tượng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Bố cục của dự thảo Nghị quyết gồm 3 điều với một số nội dung cơ bản sau.
Điều 1, quy định về nguyên tắc ghi nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của chủ hộ kinh doanh. Cụ thể là:
Một là, ghi nhận thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trước ngày 1/7/2025 của chủ hộ kinh doanh để làm căn cứ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Hai là, chủ hộ kinh doanh đã đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trước ngày Nghị quyết này ban hành thì được giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm xã hội kể từ ngày đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định.
Ba là, chủ hộ kinh doanh có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và đã được cơ quan bảo hiểm xã hội hoàn trả số tiền đã đóng, nếu có nguyện vọng bảo lưu thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trước đó thì nộp lại số tiền đã được hoàn trả vào Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Bốn là, trường hợp chủ hộ kinh doanh có yêu cầu hoàn trả tiền đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện hoàn trả, đồng thời thu hồi số tiền mà chủ hộ kinh doanh đã hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội trước đây (nếu có), không tính lãi.
Điều 2 quy định việc tổ chức thực hiện. Cụ thể, giao Chính phủ chỉ đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo, hướng dẫn Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện ghi nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội đối với chủ hộ kinh doanh quy định tại Điều 1 Nghị quyết này.
Kịp thời nghiên cứu, xử lý vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện; tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền những vấn đề vướng mắc phát sinh vượt thẩm quyền (nếu có).
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan chức năng tổ chức tuyên truyền, phổ biến, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định tại Nghị quyết này.
Việc ghi nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với chủ hộ kinh doanh do cơ quan bảo hiểm xã hội tổ chức thực hiện, về cơ bản không yêu cầu tăng thêm nhân lực để triển khai thực hiện chính sách sau khi được thông qua.
Kinh phí bảo đảm thực hiện chi trả chế độ bảo hiểm xã hội cho chủ hộ kinh doanh từ Quỹ Bảo hiểm xã hội do người chủ hộ kinh doanh đã đóng, bảo đảm nguyên tắc đóng-hưởng và không làm phát sinh kinh phí từ các nguồn khác.