Việt Nam là một trong những quốc gia xuất hiện sự mất cân bằng giới tính khi sinh muộn hơn các quốc gia khác, nhưng lại có xu hướng gia tăng rất nhanh và diễn biến ngày càng phức tạp. Mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất ở khu vực đồng bằng sông Hồng với 115,5 bé trai/100 bé gái và thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long là 106,9 bé trai/100 bé gái. Sự chênh lệch mất cân bằng giới tính khi sinh giữa khu vực thành thị và nông thôn thuộc đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước.
Nhóm các tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất tập trung ở phía bắc: Sơn La, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Ðịnh, Vĩnh Phúc, Hà Nội... trong đó cao nhất là tỉnh Sơn La (118,2 bé trai/100 bé gái), tiếp đến là Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội. Ðây là bốn địa phương có tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh cao nhất trong nhóm. Với những con số này cho thấy sự quyết liệt thực hiện các chính sách nhằm xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi sinh thời gian qua chưa đem lại hiệu quả, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục. Bên cạnh đó, các giải pháp của Tổng cục Dân số nhằm đạt chỉ tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cũng như chỉ số 104-106 bé trai/100 bé gái sẽ là thách thức không nhỏ cho công tác dân số trong thời gian tới.
Theo Tổng cục trưởng Dân số-Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Doãn Tú, việc mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ làm thay đổi cơ cấu dân số trong tương lai, phá vỡ cấu trúc cân bằng giới trong nguồn lực lao động. Theo phân tích và dự báo đến năm 2050, chênh lệch giữa nam và nữ sẽ là từ 2,3 đến 4,5 triệu người. Do thiếu nữ, cấu trúc gia đình thay đổi đáng kể (một số nam giới có thể phải lựa chọn hay rơi vào tình trạng sống độc thân) điều này sẽ ảnh hưởng đến mức sinh và chất lượng dân số. Bên cạnh đó, mất cân bằng giới tính sẽ làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng giới, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất nước, gây bất ổn về kinh tế, chính trị-xã hội. Nhìn rộng hơn, mất cân bằng giới tính còn kéo theo những thay đổi về cơ cấu ngành, nghề, môi trường làm việc; nguy cơ thiếu nguồn nhân lực trong một số ngành, nghề vốn thích hợp với nữ giới như may mặc, y tá, nghệ thuật...
Lý giải cho vấn đề này, theo GS Vũ Ðình Cự (Viện Dân số), có ba yếu tố tác động đến mất cân bằng giới tính khi sinh hiện nay, trong đó nguyên nhân sâu xa do ảnh hưởng của Nho giáo. Nhiều nơi "trọng nam, khinh nữ" rất rõ ràng và thậm chí cực đoan, cho rằng "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một trai là có, mười gái coi như không)... Nhiều gia đình người Việt đặt rõ mục tiêu phải có con trai, tạo thành một áp lực suốt đời không chỉ là của bản thân mà còn của gia đình, họ hàng và cộng đồng, xã hội. Do xuất phát điểm là sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp và trình độ thủ công, sự vượt trội về cơ bắp của con trai trở thành một ưu điểm khi cày cấy, đi biển và khai thác rừng... Năng suất lao động khu vực nông nghiệp thấp nên cha mẹ thường không có tích lũy để dành cho tuổi già, trong khi đó lại không có lương hưu, hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển... vì vậy, khi hết khả năng lao động, cuộc sống chủ yếu phải dựa vào con trai. Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn tới chênh lệch giới tính đến từ việc lạm dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật. Ngày nay, có thể chẩn đoán sớm giới tính thai nhi và việc phá thai ngày càng thuận tiện, vì vậy, nếu giới tính của đứa con tương lai không đáp ứng được mong muốn của cha mẹ, người ta có thể phá thai. Bên cạnh đó, sự ra đời của công nghệ hiện đại, khiến việc lựa chọn giới tính khi sinh trở nên khả thi với nhiều gia đình.
Thứ trưởng Y tế Ðỗ Xuân Tuyên nêu rõ, giải pháp hiệu quả nhất vẫn là công tác truyền thông nhằm thay đổi nhận thức đến hành động của người dân. Tuyên truyền bằng nhiều nội dung và hình thức phù hợp để tạo dư luận xã hội ủng hộ và xóa dần sự phân biệt giữa con trai và con gái trong tiềm thức thay đổi văn hóa, tư duy của người dân, nhất là vùng nông thôn nhằm nâng cao vị thế người phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng. Tuyên truyền để mọi người dân được biết những chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước về việc nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính thai nhi. Ðáng chú ý, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm; thậm chí đóng cửa những cơ sở y tế vi phạm về việc cung cấp thông tin giới tính hoặc lựa chọn giới tính. Về lâu dài cần định hướng xây dựng các chương trình cộng đồng cho giới nữ cũng như đẩy mạnh hình ảnh nữ quyền trong các hoạt động dành cho nữ giới ■
Thanh Mai