Niềm vui chưa trọn vẹn
Chỉ tính từ năm 1997 đến nay, diện tích, năng suất và sản lượng chè cả nước đã tăng từ 1,5 đến 2,5 lần. Hiện nay, diện tích đạt khoảng 130 nghìn ha chè các loại, với năng suất bình quân hơn 77 tạ/ha, cho sản lượng gần 824 nghìn tấn búp tươi. Ngoài tiêu thụ trong nước, mỗi năm còn có hàng trăm nghìn tấn chè đen, chè xanh và nhiều loại chè khác được xuất khẩu đến 110 quốc gia và khu vực trên thế giới, giá trị đạt gần 200 triệu USD/năm. Trong đó có một số thị trường lớn như: Pa-ki-xtan, Nga, Áp-ga-ni-xtan, Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất, In-đô-nê-xi-a, Ba Lan, Ðức, Thổ Nhĩ Kỳ,...
Mặc dù là quốc gia có sản lượng và xuất khẩu chè lớn thứ năm trên thế giới, song giá chè xuất khẩu bình quân khoảng 1,5 USD/kg, bằng 70% giá bán bình quân của sản phẩm chè thế giới. Nguyên nhân của sự "lép vế" này là do sản xuất chè còn nhỏ lẻ, manh mún. Giống chè mới chất lượng cao đưa vào sản xuất chưa nhiều, trong khi chậm áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến. Thiết bị chế biến lạc hậu, nên sản phẩm chè chưa đa dạng. Mối gắn kết giữa vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến, giữa sản xuất với thị trường lỏng lẻo...
Tìm hiểu tại Thái Nguyên, địa phương có sản lượng chè đạt hơn 170 nghìn tấn/năm, và chiếm một phần năm tổng kim ngạch xuất khẩu chè cả nước, chúng tôi được biết, hiện Thái Nguyên có 25 doanh nghiệp, hợp tác xã và 52 làng nghề sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu thụ chè. Chè Thái Nguyên chẳng những có tiếng trong nước, mà còn có mặt trên thị trường nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Song hiện nay có không ít doanh nghiệp gặp khó, thậm chí nguy cơ phá sản. Tiếp chúng tôi tại văn phòng Chi nhánh chè Sông Cầu, thuộc Tổng công ty Chè Việt Nam, Bí thư Ðảng ủy kiêm Phó Giám đốc Chi nhánh Nguyễn Văn Bốn cho biết: Từ Nông trường chè ra đời năm 1962, với quy mô 400 ha, đủ việc làm cho hơn 1.800 lao động, nay sau hơn 50 năm hoạt động chỉ còn 170 người, nhưng cũng chẳng đủ việc để làm. Ðược Nhà nước đầu tư dây chuyền sản xuất chè đen công suất 18 tấn/ngày xuất khẩu đi Liên Xô (trước đây). Loại chè không những có giá thành cao, mà còn kén người sử dụng, nên khi thị trường chính có biến động vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, chè đen không có đầu ra. Năm 1994, Chi nhánh Sông Cầu bổ sung dây chuyền sản xuất chè xanh phục vụ thị trường Nhật Bản. Song "niềm vui ngắn chẳng tày gang" khi sản phẩm mới không thể cạnh tranh được trên thị trường Nhật Bản và cũng tắc luôn cả đầu ra tại các thị trường khác. Ðể không bị phá sản, duy trì việc làm cho gần 200 lao động, chi nhánh mạnh dạn phá bỏ những giống chè cũ, trồng giống mới cho năng suất cao, chất lượng tốt, đồng thời chủ động giao lại một phần đất nông trường cho công nhân để họ "tự sản tự tiêu". Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng sáu tháng đầu năm nay, cả hai dây chuyền của chè Sông Cầu gần như "đắp chiếu" do chỉ thu mua được 30 tấn chè tươi, sản xuất ra sáu tấn chè khô.
Không riêng Thái Nguyên, tại Yên Bái, Bí thư Huyện ủy Văn Chấn Nguyễn Văn Lịch cho chúng tôi biết: Sau chiến thắng năm 1954, nhiều chiến sĩ Ðiện Biên đã "hạ sao" trở về với nghề nông, hàng loạt nông trường chè đã ra đời ở Yên Bái, với tổng diện tích hơn 13 nghìn ha, trong đó có 10 nghìn ha chè kinh doanh. Ði kèm với đó là hơn 100 cơ sở chế biến lớn nhỏ. Riêng huyện Văn Chấn hiện có hơn 4.300 ha chè, với sản lượng chè búp tươi khoảng 43 nghìn tấn/năm. Nhưng thời gian gần đây, nhiều nông trường chè ở Yên Bái gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ. Ðể gỡ khó cho ngành chè, tỉnh ban hành Nghị quyết 02 về cây chè, nhưng đến nay vẫn chỉ dừng lại trên văn bản. Trong khi đó, nhiều loại chè "bẩn", chè kém chất lượng, chè "bao tải" ra đời cạnh tranh không lành mạnh, làm ảnh hưởng tới nhiều thương hiệu chè truyền thống của địa phương.
Nâng hiệu quả sản xuất
Ðể cải thiện chất lượng chè, tăng sức cạnh tranh trên thị trường chè thế giới, nhiều địa phương đã chủ động cải tạo và đưa các giống chè mới vào sản xuất. Trong đó, có các giống PH8, PH9 và PH11 do Viện Khoa học kỹ thuật nông - lâm nghiệp miền núi phía bắc chuyển giao, được đánh giá cao.
Dây chuyền sản xuất chè đen xuất khẩu của Công ty TNHH Một thành viên chè Phú Bền (Phú Thọ). Ảnh: VIỆT ANH
Theo anh Vũ Ngọc Tú, cán bộ Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế, mỗi năm viện trực tiếp cung ứng cho các tỉnh vùng trung du, miền núi phía bắc (với diện tích trồng chè đạt gần 93 nghìn ha, chiếm 71,6% tổng diện tích và 67,4% sản lượng chè cả nước), từ 8 đến 10 triệu cây chè giống mới, góp phần đưa tỷ lệ diện tích trồng giống mới của vùng lên hơn 52%. Thái Nguyên là tỉnh tiếp cận và phát triển hai giống chè mới PH8, PH9 nhiều nhất, đạt 110 ha, sau đó Lai Châu hơn 60 ha, Phú Thọ 55 ha, Tuyên Quang 45 ha. Ngoài các tỉnh trên, chè giống mới còn được phát triển tại các tỉnh Nghệ An, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Hòa Bình, Quảng Ninh..., đưa tổng diện tích trồng hai giống chè PH8, PH9 trên cả nước đạt gần 330 ha.
Qua thực tế, các tỉnh đều đánh giá giống chè mới sinh trưởng tốt, nhất là khả năng chống, chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi của thời tiết. Tại Lai Châu, giống PH8 có khả năng chịu lạnh tốt, trong những đợt lạnh giá năm 2011 các giống chè khác ngừng phát triển, riêng giống chè PH8 vẫn bật mầm và sinh trưởng bình thường. Trong đợt hạn hán kéo dài năm 2009 tại Phú Thọ, trong khi các giống chè khác nhiều diện tích bị héo rũ, lác đác bị chết cây, tuy nhiên cả hai giống PH8, PH9 cây vẫn sinh trưởng bình thường. Tại Nghệ An, mặc dù cây chè mới được hai năm tuổi song qua các đợt nắng nóng vừa qua cây chè vẫn sinh trưởng tốt. Vì vậy, trong thời gian tới, tại các tỉnh sản xuất chè ở vùng trung du miền núi phía bắc có kế hoạch trồng mới, hoặc trồng thay thế các nương chè cũ, nhằm phát huy tiềm năng của giống mới và nâng hiệu quả sản xuất chè.
Cùng với việc chọn tạo giống mới, Viện Khoa học kỹ thuật nông - lâm nghiệp miền núi phía bắc còn đẩy mạnh công tác chuyển giao công nghệ mới trong sản xuất chè cho các địa phương, với nhiều hình thức chuyển giao đa dạng, như xây dựng mô hình trình diễn giống chè mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến, quy trình công nghệ chế biến chè mới tại các vùng; đào tạo chuyển giao kỹ thuật mới cho hàng nghìn hộ nông dân sản xuất chè; mở rộng diện tích trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP và UTZ Certified tại các vùng chè trọng điểm.
Thái Nguyên là tỉnh đầu tiên trong cả nước có sản phẩm chè kiểm soát từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, có thực hiện truy nguyên nguồn gốc, được ký bao tiêu sản phẩm. Tỉnh Phú Thọ cũng xây dựng quy chế quản lý gắn vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến; phát triển vùng chè đặc sản, tăng cường quản lý chất lượng và khuyến khích đầu tư chế biến chè chất lượng cao, chè đặc sản. Phấn đấu đến năm 2015 giữ ổn định diện tích trồng chè hơn 15 nghìn ha, trong đó có 70% diện tích chè được trồng bằng các giống mới.
Xây dựng thương hiệu, chủ động tìm đầu ra
Cùng với việc mở rộng diện tích trồng chè "chất lượng cao", để đưa sản phẩm chè đến gần hơn với người tiêu dùng, tỉnh Phú Thọ chi hàng chục tỷ đồng ngân sách hỗ trợ nông dân mua phân bón và chuyển đổi sang trồng các giống chè mới và giúp các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu quảng bá sản phẩm chè chất lượng cao, chè đặc sản như chè xanh, chè đen, chè Ô long, chè thảo dược, chè Hà Trang... Trên đất chè Thái Nguyên, từ năm 2005 đến nay, tỉnh đã mạnh dạn tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các Lễ hội trà, Tuần văn hóa trà. Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất - năm 2011 thu hút được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế tham dự. Ðây chính là dịp để quảng bá, tôn vinh thương hiệu chè Thái Nguyên nói riêng và chè Việt nói chung trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Anh Trần Văn Thắng, chủ cơ sở sản xuất chè Thắng - Hường ở xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương, TP Thái Nguyên không giấu được niềm vui khi cho chúng tôi biết: Sau tham gia Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất, sản phẩm chè của gia đình anh được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn. Nhờ vậy, gia đình anh có thể đứng ra mở xưởng, mỗi năm sản xuất hơn hai tấn chè. Vào vụ cao điểm phải thuê từ 30 đến 40 nhân công với mức lương 120 nghìn đồng/ngày, trừ các khoản chi phí, gia đình anh thu nhập hơn 100 triệu đồng/vụ. Ðể đưa sản phẩm chè Thái Nguyên ra thị trường, nhiều hộ dân ở xóm Nhà Thờ, xã Phúc Trìu, TP Thái Nguyên đã cùng góp vốn thành lập Hợp tác xã chè Thiên Phú. Ngay năm đầu tiên ra đời, HTX đã sản xuất được 18 tấn chè. Phó Chủ nhiệm HTX Nguyễn Thị Thục khẳng định, thương hiệu chè Thiên Phú có thể phát triển mạnh hơn nếu nhận được sự đầu tư thỏa đáng, cũng như sự chung tay, góp sức của các cấp chính quyền, đoàn thể. Trong đó, việc tổ chức Liên hoan Trà chính là dịp để người sản xuất giới thiệu sản phẩm, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa vùng nguyên liệu - cơ sở chế biến - tiêu thụ, mang lại thu nhập và giải quyết việc làm cho người dân. Theo chúng tôi, có lẽ đây cũng là mong muốn của hơn 400 nghìn hộ nông dân sản xuất chè cả nước.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Dương Ngọc Long khẳng định: Từ thành công tại Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất, tỉnh Thái Nguyên vừa quyết định tổ chức Liên hoan Trà quốc tế Thái Nguyên - Việt Nam lần thứ 2, dự kiến sẽ được diễn ra vào cuối năm nay, với sự tham gia của một số nước là thành viên Hiệp hội Chè thế giới, những địa phương có thế mạnh về cây chè, các doanh nghiệp, các làng chè sản xuất trà ngon nổi tiếng. Ðây sẽ là dịp để người sản xuất chè cả nước giao lưu, học hỏi, giới thiệu các sản phẩm chè với bạn bè trong nước và quốc tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển vùng nguyên liệu và chế biến chè, tìm cơ hội đưa hương vị chè Việt bay xa. Về lâu dài, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng Ðề án "Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của chè Thái Nguyên", nhằm huy động sức mạnh của toàn xã hội vừa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển ngành chè một cách bền vững, vừa góp phần bảo tồn, tôn vinh các giá trị văn hóa đặc sắc của chè Việt nói chung và chè Thái Nguyên nói riêng.
Trong câu chuyện xoay quanh ấm chè, cùng thưởng thức món bánh quy làm từ nguyên liệu chè xanh, ông Long khẳng định, tới đây sản phẩm chè không chỉ để uống mà còn có thể chế biến thành món ăn, phục vụ người tiêu dùng một cách đa dạng hơn. Uống chè hay thưởng chè không chỉ là một nét đẹp văn hóa, mà ở đó người ta có thể cảm nhận được cái nắng, cái gió hòa trong hương vị của chè, và tận hưởng một cách trọn vẹn tấm thịnh tình của những người đã "canh từng hạt nắng, hứng từng giọt sương" để làm ra chè.