Căng và Đồn Nghĩa Lộ, một di tích lịch sử văn hóa

NDO - Khu di tích lịch sử văn hóa Căng và Đồn Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái, nơi đã từng diễn ra cuộc bạo động phá Căng của các chiến sĩ cộng sản chốn lao tù ngày 17/3/1945, nơi ghi nhận chiến công của quân và dân ta trong trận đánh Phân khu quân sự Nghĩa Lộ của thực dân Pháp năm 1952, mở đường tiến vào chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc.
0:00 / 0:00
0:00
Tượng đài chiến thắng Nghĩa Lộ tại khu di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ. (Ảnh: THANH SƠN)
Tượng đài chiến thắng Nghĩa Lộ tại khu di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ. (Ảnh: THANH SƠN)

Từ “Căng” tiếng Pháp có nghĩa là “tập trung tù chính trị”. Vào thời điểm năm 1944, phong trào cách mạng vùng căn cứ địa Việt Bắc dâng cao. Các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm trong nhà tù đế quốc luôn tìm cách vượt ngục ra ngoài hoạt động.

Trước tình hình đó, chính quyền thực dân có ý định chuyển số tù chính trị ở Căng Bá Vân (Thái Nguyên) đi nơi khác. Vì vậy, đầu tháng 2/1944 thực dân Pháp xây dựng kiên cố lại nơi giam tù ở đồi Pú Chạng (Nghĩa Lộ) thành “Căng”. Căng xây vững chắc gồm 3 dãy nhà dài, 2 dãy để giam tù chính trị nam, 1 dãy để giam các chiến sĩ nữ. Ba dãy nhà đó bị vây chặn bằng 3 lớp rào bằng cây tre, nứa cắm chéo nhau, có hàng rào sâu bao quanh, dưới hào có cắm chông. Bên ngoài là trạm gác lính khố xanh, vũ khí luôn sẵn sàng, do đích thân đồn trưởng người Pháp là Xi-vê (Civet) chỉ huy. Trung đội lính khố xanh này còn có viên Quản Nhượng, Đội Mai, Cai Trúc cai quản.

Đầu năm 1945, gần 100 chiến sĩ cộng sản bị thực dân Pháp xiềng xích, giải từ Căng Bá Vân (Thái Nguyên) về Căng Nghĩa Lộ, nói là đi “an trí" thực chất là chuyển đi giam cầm, đầy ải rất dã man ở nơi xa xôi, hẻo lánh Nghĩa Lộ. Trong thời gian ngắn, nhiều đảng viên cộng sản bị tra tấn, đánh đập, có bệnh tật không được cứu chữa…

Căng và Đồn Nghĩa Lộ, một di tích lịch sử văn hóa ảnh 1

Đồn Nghĩa Lộ được xây bằng gạch nung, có hệ thống hào sâu. (Ảnh: THANH SƠN)

Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái, thời kỳ này dù trong ngục tù, bị địch kiểm soát chặt chẽ, nhưng các tù chính trị vẫn thành lập Chi bộ Đảng trong Căng, thành lập Ban lãnh đạo tối cao (gọi là Ủy ban nhà tù) gồm: Phạm Quang Thẩm, Nguyễn Sỹ Nghiêm, Nguyễn Văn Đối (sau này lấy tên hoạt động là Vương Thừa Vũ, là trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam), Trần Huy Liệu, Trần Đức Sắc. Ngoài ra, Căng còn có Ban tuyên truyền, ấn loát, Ban địch vận-binh lương, Ban tham mưu, Ban y tế… Các tù chính trị chọn các chiến sĩ trẻ, khỏe thành lập trung đội thường trực. Chi bộ ra một tờ báo lấy tên “Đường nghĩa” do đồng chí Trần Huy Liệu phụ trách.

Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp. Lính Pháp bại trận lũ lượt kéo nhau từ Yên Bái qua Nghĩa Lộ, đi Gia Hội, Tú Lệ tìm đường sang Vân Nam, Trung Quốc. Nắm lấy thời cơ, Ủy ban nhà tù quyết định đấu tranh vũ trang, kết hợp với binh lính người Việt đã được giác ngộ thoát khỏi nơi giam cầm, trở về hoạt động.

Chi bộ nhà tù đã họp bàn, nhất trí lấy đêm 15/3/1945 tổ chức phá Căng. Theo kế hoạch cai Sinh, đã được các chiến sĩ cách mạng giác ngộ, chờ cho đội Quản Nhượng ngủ, sẽ khóa cửa, nhốt lại. Cai Sinh cùng binh sĩ nội ứng sẽ mở cửa Căng cho anh em ra nhận súng, rồi cùng nhau chiếm đồn. Nhưng đến đêm hẹn, cai Sinh bị điều đi công cán vắng. Chi bộ quyết định lui đến đêm 18/3/1945 mới khởi sự.

Đến chiều ngày 17/3/1945, viên Phó sứ Yên Bái là Pen-li-ê (Penlie) qua Nghĩa Lộ, vào kiểm tra Căng. Khi hắn vào, bất ngờ một tù chính trị ôm lấy, quật ngã. Thấy vậy, Quản Nhượng ra lệnh nổ súng. Tranh thủ lúc hỗn loạn, các chiến sĩ ta phá rào chạy ra ngoài. Nhiều người đã thoát, được nhân dân cưu mang giúp đỡ, trở về được chiến khu Vần tham gia cách mạng. Một số người bị bắt lại, trong đó có đồng chí Nguyễn Phúc (sau này là Phó Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh Yên Bái tháng 8/1945).

Một số chiến sĩ hy sinh, được ghi trên bia thờ gồm 9 người: Ngô Gia Bảy, 40 tuổi, dân tộc Kinh, quê Phủ Lý, Hà Nam; Nguyễn Doãn Duyệt, 38 tuổi, dân tộc Kinh, quê Hải Dương; Nguyễn Văn Hiếu, 40 tuổi, dân tộc Tày, quê Lạng Sơn; Nguyễn Văn Hưng, 58 tuổi, dân tộc Tày, quê Lạng Sơn; Nguyễn Đăng Kim, 25 tuổi, dân tộc Kinh, quê Vĩnh Phúc; Nhạc sĩ Đinh Nhu, 42 tuổi, dân tộc Kinh, quê Hải Phòng; Nguyễn Văn Phùng, 26 tuổi, dân tộc Tày, quê Lạng Sơn; Phạm Quang Thẩm, 42 tuổi, dân tộc Kinh, quê Vũ Thư, Thái Bình; Phạm Văn Uy, 28 tuổi, dân tộc Kinh, quê Hà Nam.

Theo một số nhân chứng, khi khai quật mộ tập thể, đội quy tập thấy 9 bộ xương quấn vào nhau và một bộ xương người nước ngoài. Do không xác định được AND, nên số người hy sinh được quy tập mộ tập thể, riêng bộ xương nước ngoài đã thông qua Đại sứ quán Pháp đưa về nước.

Căng và Đồn Nghĩa Lộ, một di tích lịch sử văn hóa ảnh 2

Khu mộ tập thể nơi an nghỉ của 9 chiến sĩ cách mạng hy sinh trong lúc vượt Căng Nghĩa Lộ. (Ảnh: THANH SƠN)

Tháng 10/1947, Pháp chiếm lại Mường Lò, đóng Sở chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ ở đây. Phân khu quân sự Nghĩa Lộ gồm có: Cứ điểm Pú Chạng (còn gọi là Nghĩa Lộ đồn cao) nằm trên đồi Pú Chạng cao 250 mét án ngữ đầu phố trông xuống Nghĩa Lộ phố có 300 quân, gồm 8 lô cốt, 15 ụ súng, có hầm kiên cố, có 3 đến 4 lớp hàng rào dây thép gai, xen kẽ là bãi mìn dày đặc; Cứ điểm Nghĩa Lộ (còn gọi là Nghĩa Lộ đồn thấp), nằm ở Nghĩa Lộ phố kiểm soát con người trong phố và cánh đồng Mường Lò rộng lớn nối với các vùng đất của huyện Văn Chấn, sân bay Nghĩa Lộ có 500 quân đồn trú.

Tháng 9/1951, Đại đoàn 312 phối hợp tỉnh Yên Bái mở chiến dịch Lý Thường Kiệt. Đúng 4 giờ sáng ngày 3/10/1951 đánh vào Nghĩa Lộ, ta và địch đều bị thiệt hại. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ở ngay ngã tư gốc đa, ta diệt 2 sĩ quan Pháp và một trung đội địch, bên ta bị hy sinh 23 chiến sĩ.

Ngày 14/10/1952, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu. Ngay đêm đó, Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tiến công diệt vị trí Sài Lương, Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) diệt vị trí đồn Ca Vịnh. Địch vội vàng rút khỏi các đồn Thượng Bằng La, Ba Khe hòng cứu nguy cho Nghĩa Lộ.

17 giờ 5 phút ngày 17/10, Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) tiến công cứ điểm Pú Chạng, Sở chỉ huy phân khu của địch. Sau hơn 3 giờ chiến đấu quyết liệt quân ta xóa sổ cứ điểm này, diệt và bắt toàn bộ gần 400 tên địch, trong đó có tên trung tá Ti-ri-ông (Tirillon), Chỉ huy trưởng phân khu, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng.

3 giờ sáng ngày 18/10, Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) tiến công cứ điểm Nghĩa Lộ phố. Địch điên cuồng chống cự. Sau 3 giờ đồng hồ chiến đấu, ta diệt và bắt toàn bộ khoảng 500 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh khác trong đó có 2 khẩu pháo 105mm và hàng nghìn viên đạn.

Chỉ trong vòng 10 ngày quân ta giải phóng được một vùng rộng lớn bên tả ngạn sông Đà gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái), Phù Yên và một phần huyện Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến cuối tháng 12/1952 giải phóng phần lớn Tây Bắc (trừ cứ điểm Nà Sản và thị xã Lai Châu), diệt và bắt gọn hơn 6.000 tên địch.

Căng và Đồn Nghĩa Lộ, một di tích lịch sử văn hóa ảnh 3

Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ tại khu di tích. (Ảnh: THANH SƠN)

Chiến thắng Tây Bắc có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không những giải phóng một vùng chiến lược, phần lớn đồng bào Tây Bắc thoát khỏi ách thống trị của giặc Pháp mà còn xóa bỏ sự uy hiếp của địch đối với căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây. Âm mưu thâm độc của thực dân Pháp lập “xứ Thái tự trị” nhằm chia rẽ người Thái với người Kinh và người Thái với đồng bào các dân tộc thiểu số khác bị phá sản hoàn toàn, mở cánh cửa thép cho bộ đội ta tiến vào tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giải phóng Tây Bắc.

Để tôn vinh chiến thắng Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái đã xây dựng cụm tượng đài chiến thắng Nghĩa Lộ trên đồi Pú Chạng (nơi xưa kia là hệ thống đồn bốt thuộc đồn cao Pú Chạng của giặc Pháp). Là một phần trong cụm di tích lịch sử-văn hóa Căng và Đồn Nghĩa Lộ đã được Nhà nước xếp hạng di tích cấp quốc gia. Vào ngày 18/10 hằng năm, trở thành ngày truyền thống, ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc của thị xã Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Căng và Đồn Nghĩa Lộ, một di tích lịch sử văn hóa ảnh 5

Thắp nến tri ân tại khu mộ tập thể trong quần thể di tích. (Ảnh: THANH SƠN)

Em Nguyễn Khánh Ngân, học sinh lớp 6A, Trường tiểu học và trung học cơ sở Lý Tự Trọng, thị xã Nghĩa Lộ, cho hay, nhà trường vào các dịp lễ và ngày kỷ niệm thường tổ chức các buổi ngoại khóa như kết nạp đội viên, đoàn viên mới, tham quan di tích tại di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ, để giáo dục truyền thống cho lớp trẻ.