Ngày 10/3, Bộ Y tế phối hợp Ủy ban Dân tộc và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tổ chức Hội nghị vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản. 30 cô đỡ thôn bản đại diện cho hơn 1.500 cô đỡ thôn bản đang hoạt động đã về dự hội nghị.
Cô đỡ thôn bản là "cánh tay" đắc lực của ngành y tế
Theo Thứ trưởng Y tế Trần Văn Thuấn, trước đây, tỷ lệ tử vong của thai phụ và trẻ sơ sinh tại Việt Nam rất cao, đặc biệt là ở miền núi, các vùng sâu, vùng xa. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ tập quán không đi khám thai, tự sinh nở tại nhà mà không qua sự theo dõi của cán bộ y tế.
Vì thế, việc xây dựng mạng lưới cô đỡ thôn bản tại các vùng khó khăn là một giải pháp tạm thời nhưng rất hiệu quả nhằm giúp gỡ bỏ những rào cản về địa lý, văn hóa và kinh tế khiến cho phụ nữ người dân tộc thiểu số không thể tiếp cận được tới các dịch vụ khám thai, đỡ đẻ an toàn và chăm sóc sau sinh.
Để trở thành cô đỡ thôn bản, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất là 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời.
Với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 cô đỡ thôn, bản được đào tạo.
Thứ trưởng Y tế Trần Văn Thuấn phát biểu tại hội nghị. |
Chỉ tính riêng năm 2019, mạng lưới cô đỡ thôn bản đã thăm khám khoảng 42.441 lượt cho các thai phụ. Trong đó, có 1.953 bà mẹ được khám thai đủ 3 lần.
Cũng trong năm này, toàn quốc có 5.321 trường hợp được đỡ đẻ bởi các cô đỡ thôn, bản, cụ thể: 3.340 trường hợp đẻ tại nhà, 1.229 trường hợp đẻ rơi và 662 trường đẻ tại Trạm y tế.
Tại các thôn có cán bộ thôn, bản, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc tại nhà (ít nhất 3 lần) đã được cải thiện rõ rệt, góp phần quan trọng vào sự cải thiện chung cho toàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này chứng tỏ sự đóng góp rất lớn của đội ngũ cô đỡ thôn, bản suốt thời gian qua.
Cần cơ chế, chính sách đãi ngộ tốt hơn cho cô đỡ thôn bản
Mặc dù, mạng lưới cô đỡ thôn, bản đã giúp nhiều thai phụ có cơ hội tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở mẹ và trẻ em, nhưng việc phát triển mạng lưới cô đỡ thôn, bản gặp phải không ít khó khăn.
Theo báo cáo của các địa phương, cả nước hiện có 5.111 thôn bản có khó khăn về chăm sóc sức khỏe sinh sản, cần bố trí 1 cô đỡ thôn bản. Kết quả khảo sát năm 2021 cũng cho thấy tại 18 tỉnh miền núi khó khăn cũng có tới 4.346 thôn bản cần có cô đỡ thôn bản.
Trong khi đó, hiện cả nước chỉ còn 1.549 cô đỡ thôn bản đang hoạt động, đạt tỷ lệ bao phủ 30,31%, đặc biệt tại các tỉnh miền núi khó khăn như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Kon Tum, Gia Lai vẫn còn nhiều thôn bản có tỷ lệ đẻ tại nhà rất cao (trên 60%) nhưng chưa có sự phục vụ của cô đỡ thôn bản.
Trên thực tế, số lượng cán bộ thôn, bản còn thiếu, trong khi đó nhu cầu về chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các vùng sâu, vùng xa lại cao. Vì vậy, không ít cán bộ thôn, bản phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc khác như nhân viên y tế, tham gia vào các công tác của Chi hội Phụ nữ, Hội Nông dân… Thậm chí, một số cô đỡ thôn, bản còn phụ trách thêm công việc ở các địa phương lân cận.
Các cô đỡ thôn bản tham dự hội nghị. |
Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Y Thông cho biết: Tỷ lệ phụ nữ không được chăm sóc, khám thai định kỳ và tỷ suất trẻ em dưới 1 tuổi tử vong còn rất cao.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan về điều kiện địa lý, mức độ phát triển kinh tế-xã hội, các phong tục tập quán của bà con dân tộc thiểu số, còn có nguyên nhân chủ quan khác là các địa phương chưa phát huy hết vai trò, vị trí của cô đỡ thôn bản trong công tác chăm sóc sức khỏe mẹ và bé.
Đáng chú ý, dù đã có nhiều quyết sách để phát triển đội ngũ này, song việc thực hiện giữa các địa phương có sự khác nhau, một địa phương còn không bố trí kinh phí hỗ trợ. Điều này dẫn đến việc duy trì hoạt động mạng lưới cô đỡ thôn, bản gặp không ít vướng mắc.
Hiện tại, số cô đỡ thôn, bản được hưởng phụ cấp đã giảm xuống còn 911 người, trong đó có 732 kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn bản. Một số địa phương đã cho dừng hoạt động đội ngũ cô đỡ thôn, bản vì thiếu kinh phí.
Ông Y Thông nhấn mạnh: “Ủy ban Dân tộc đề nghị cấp ủy, chính quyền, hệ thống chính trị cơ sở các cấp vùng dân tộc thiểu số và miền núi xác định rõ vai trò, vị trí của cô đỡ thôn bản; quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là thực hiện đúng, đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cô đỡ thôn bản.
Ngoài ra, cần tích cực tuyên truyền, vận động các chức sắc, già làng, trưởng bản, các doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân, tổ chức quốc tế... nhằm huy động nguồn lực, điều kiện vật chất và tinh thần để động viên, phát huy vai trò của đội ngũ cô đỡ thôn, bản”.
Ông Y Thông đề nghị Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành trong việc kiểm tra, rà soát, nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ cô đỡ thôn bản. Ủy ban Dân tộc cũng đề nghị cấp uỷ, chính quyền, hệ thống chính trị cơ sở các cấp vùng dân tộc thiểu số và miền núi xác định rõ vai trò, vị trí của cô đỡ thôn bản, thực hiện đúng, đầy đủ các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với cô đỡ thôn bản.
Phát biểu tại sự kiện, bà Lesley Miller, Phó trưởng đại diện UNICEF Việt Nam nói, sức khỏe và sự sống còn của bà mẹ vẫn là một trong các nội dung được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình nghị sự về sức khỏe và sự phát triển của đất nước.
Để duy trì những tiến bộ vượt bậc mà Việt Nam đã đạt được trong những thập kỷ qua, hơn bao giờ hết, chúng ta cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để bảo đảm rằng tất cả các bà mẹ, bất kể thuộc dân tộc nào hay đến từ đâu, đều có thai kỳ khỏe mạnh và được cán bộ y tế có kỹ năng chăm sóc khi sinh.
Bà Lesley Miller nhấn mạnh: Các cô đỡ thôn bản ở miền núi và vùng sâu, vùng xa là tài sản quý giá trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Việc duy trì và mở rộng mạng lưới cô đỡ thôn bản có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả sức khỏe bà mẹ, cứu sống các bà mẹ và trẻ sơ sinh.