Mở rộng và đa dạng hóa các loại hình tư vấn xét nghiệm
Hiện nay, Cục Phòng, chống HIV/AIDS đang tập trung vào mục tiêu mở rộng và đa dạng hóa các loại hình tư vấn xét nghiệm HIV, đẩy mạnh xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng và tự xét nghiệm, hướng đến việc đạt 95% người nhiễm HIV trong cộng đồng biết tình trạng của mình vào năm 2030.
Để đạt được mục tiêu này, Cục đã triển khai các hoạt động cụ thể như đa dạng hóa các loại hình tư vấn xét nghiệm HIV: Cục Phòng, chống HIV/AIDS đã chỉ đạo các địa phương phối hợp với các dự án và tổ chức quốc tế để triển khai tư vấn xét nghiệm HIV thông qua nhiều mô hình khác nhau.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thị Thu Hương, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, việc đưa dịch vụ này đến gần nhất với nhóm người có hành vi nguy cơ cao, từ đó giúp phát hiện sớm và tăng tỷ lệ người biết tình trạng nhiễm HIV của mình.
Bên cạnh đó, Cục triển khai các hoạt động cụ thể bao gồm, duy trì các cơ sở tư vấn xét nghiệm HIV trên toàn quốc, với hơn 1.300 cơ sở y tế thực hiện tư vấn xét nghiệm HIV; triển khai dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tại cộng đồng ở 33 tỉnh/thành phố; cung cấp tư vấn xét nghiệm HIV cho bạn tình và người chích chung của người nhiễm HIV, cũng như các nhóm có hành vi nguy cơ cao và các hoạt động truy vết; cung cấp sinh phẩm tự xét nghiệm tại các tỉnh trong khuôn khổ dự án Quỹ Toàn cầu và Dự án EPIC.
Đa dạng hóa các dịch vụ xét nghiệm. |
Triển khai cung cấp sinh phẩm tự xét nghiệm trực tuyến qua website http://tuxetnghiem.vn tại 32 tỉnh/thành phố, từ năm 2020 đến nay đã cung cấp hơn 40.000 đơn hàng, ghi nhận gần 30.000 lượt phản hồi kết quả và khoảng 1.000 lượt báo cáo có phản ứng với sinh phẩm tự xét nghiệm.
Hiện nay, Cục đã triển khai xét nghiệm nhiễm mới HIV tại 50 tỉnh/thành phố. Việc mở rộng xét nghiệm nhằm phát hiện sớm các ca nhiễm mới, giúp can thiệp kịp thời và hỗ trợ người nhiễm HIV tiếp cận điều trị ARV.
Để duy trì và mở rộng mạng lưới cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV và xét nghiệm phục vụ theo dõi và điều trị, Cục đã duy trì và phát triển mạng lưới gồm 251 phòng xét nghiệm khẳng định HIV bao gồm 31 phòng tuyến Trung ương; 80 phòng tuyến tỉnh, 136 phòng tuyến huyện và 4 phòng tư nhân.
Để bảo đảm chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm và điều trị HIV, Cục đã thực hiện giám sát, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và nâng cao năng lực cho các cơ sở xét nghiệm. Ngoài ra, các hướng dẫn chuyên môn và hành lang pháp lý cũng được xây dựng để hỗ trợ triển khai hoạt động này một cách hiệu quả.
Nâng cao chất lượng điều trị ARV
Tính đến tháng 6/2024, trên toàn quốc có 181.558 người nhiễm HIV đang được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV), trong đó có 2.466 trẻ em dưới 15 tuổi, tại hơn 500 cơ sở y tế ở 63 tỉnh, thành phố. Số người được cấp thuốc ARV thông qua bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 119.055 người, chiếm trên 66%.
Chương trình điều trị ARV tại Việt Nam đã nhận được đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế với tỷ lệ người bệnh HIV có kết quả xét nghiệm tải lượng HIV (TLHIV) dưới ngưỡng ức chế (< 1000 cp/ml) đạt trên 97%; tỷ lệ người bệnh duy trì điều trị ARV đạt trên 95%. Trên 95% bệnh nhân được điều trị dự phòng lao tiềm ẩn và đồng nhiễm HIV/Lao.
Tất cả người bệnh đang điều trị ARV đều được sàng lọc viêm gan C, và những người nhiễm virus viêm gan C được điều trị với tỷ lệ khỏi bệnh đạt trên 96% (với thuốc điều trị do Dự án Quỹ Toàn cầu hỗ trợ).
Gần đây, các cơ sở điều trị đã bắt đầu triển khai sàng lọc, quản lý và điều trị các bệnh không lây nhiễm như cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu, đái tháo đường, sức khỏe tâm thần.
Công tác điều trị ARV đạt hiệu quả cao. |
Công tác quản lý và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cũng được tăng cường, bao gồm xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai để phát hiện và điều trị ARV kịp thời, giúp trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được điều trị dự phòng và tư vấn chăm sóc. Tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con hiện duy trì ở mức rất thấp, dưới 1,9%.
Cục Phòng, chống HIV/AIDS cũng đã cung cấp các dịch vụ chăm sóc và điều trị cho trẻ em và vị thành niên nhiễm HIV, bao gồm tư vấn công khai tình trạng nhiễm HIV và hướng dẫn sức khỏe sinh sản, an toàn tình dục tại các cơ sở điều trị.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thị Thu Hương, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, chương trình điều trị HIV đã đạt được nhiều kết quả tích cực và phần lớn các dịch vụ khám chữa bệnh cùng thuốc ARV được BHYT chi trả. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn và thách thức như ở nhiều địa phương, người bệnh HIV gặp khó khăn trong việc tiếp cận thuốc ARV, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, gây khó khăn cho việc duy trì điều trị.
Độ bao phủ của xét nghiệm tải lượng HIV còn hạn chế, mỗi năm chỉ đạt dưới 80%. Nhiều tỉnh, thành phố chưa có điều kiện thực hiện xét nghiệm này tại chỗ và phải ký hợp đồng với các đơn vị đủ điều kiện xét nghiệm.
Quá trình mua sắm và cung ứng thuốc ARV gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng thiếu thuốc trong một số thời điểm.
Việc cung cấp gói dịch vụ toàn diện (sàng lọc, quản lý điều trị các bệnh không lây nhiễm, chăm sóc sức khỏe tâm thần) cho người nhiễm HIV tại các cơ sở y tế còn hạn chế, do liên quan đến yêu cầu về chứng chỉ hành nghề của cán bộ y tế.
Do đó, bà Thu Hương mong muốn có thêm các chính sách và hướng dẫn chuyên môn về điều trị HIV; xây dựng văn bản hướng dẫn về khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế (KCB BHYT) từ xa; cập nhật quy trình chuyên môn khám, chữa bệnh HIV để phù hợp với nhu cầu điều trị hiện tại.
Về mặt chuyên môn kỹ thuật, cần cung cấp dịch vụ phù hợp với tình trạng bệnh của từng người; lồng ghép và đa dạng hóa các mô hình cung cấp dịch vụ, tạo kết nối trong hệ thống điều trị HIV, lấy người bệnh làm trung tâm; nâng cao chất lượng dịch vụ lâm sàng và cận lâm sàng, xây dựng môi trường khám chữa bệnh thân thiện, giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
Về cung ứng thuốc và sinh phẩm, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý điều trị HIV, kết nối hệ thống HMED với phần mềm quản lý bệnh viện khi thực hiện khám BHYT; phát triển các công cụ hỗ trợ kỹ thuật và triển khai hỗ trợ chuyên môn trong mua sắm và quản lý chuỗi cung ứng phục vụ điều trị HIV.
Để bảo đảm sự sẵn có và dễ tiếp cận các xét nghiệm cần thiết, cần có chính sách cung ứng thuốc liên tục, không gián đoạn; bảo đảm nguồn lực tài chính bền vững ổn định từ bảo hiểm y tế và ngân sách nhà nước để bảo đảm hoạt động điều trị HIV hiệu quả và bền vững.
"Những giải pháp này hướng tới việc nâng cao hiệu quả điều trị HIV, bảo đảm quyền lợi cho người bệnh và góp phần vào mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030", bà Thu Hương nhấn mạnh.