Bảo hiểm xã hội Việt Nam nỗ lực vì sự nghiệp an sinh xã hội

28 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự cố gắng nỗ lực của tập thể công chức, viên chức và người lao động, ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hành trình này từng bước khẳng định, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội là hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
0:00 / 0:00
0:00
Người lao động tại Nhà máy của Công ty TNHH Sản phẩm công nghiệp Toshiba Asia thuộc Tập đoàn Toshiba, khu công nghiệp Amata Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Ảnh: Thiên Vương)
Người lao động tại Nhà máy của Công ty TNHH Sản phẩm công nghiệp Toshiba Asia thuộc Tập đoàn Toshiba, khu công nghiệp Amata Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Ảnh: Thiên Vương)

Nhân kỷ niệm 28 năm ngày thành lập (16/2/1995-16/2/2023), Bí thư Ban Cán sự Đảng, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh đã có cuộc trao đổi, chia sẻ về chặng đường 28 năm tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với nhiều trọng trách nhưng cũng không ít vinh dự, tự hào.

Góp phần đưa các chính sách an sinh ngày càng đi vào cuộc sống

Phóng viên: Thời gian qua, ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, từng bước khẳng định chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hai chính sách có vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước. Ông có thể chia sẻ cụ thể về một số thành tựu nổi bật mà ngành đã đạt được trong 28 năm qua?

Bảo hiểm xã hội Việt Nam nỗ lực vì sự nghiệp an sinh xã hội ảnh 1

Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh:

Phát triển bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo hướng bao phủ toàn dân là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước.

Với ý nghĩa đó, cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam trong 28 năm qua đã góp phần đưa các chính sách này ngày càng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực. Cụ thể là:

Thứ nhất, chủ động, tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam thường xuyên chủ động tổng hợp vướng mắc trong tổ chức, thực hiện các chính sách; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp đánh giá về tình hình thực hiện chế độ, chính sách và tác động để kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại... phục vụ thiết thực, hiệu quả việc xây dựng, sửa đổi các dự luật quan trọng. Qua đó, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp phù hợp với thực tiễn, tạo thuận lợi cho người lao động và nhân dân tham gia, thụ hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách.

Theo đó, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từng bước được hoàn thiện theo hướng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và mở rộng phạm vi bao phủ, quyền lợi của người tham gia và thụ hưởng chính sách.

Chính sách bảo hiểm y tế bảo đảm cho người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, hướng đến cải thiện chất lượng sức khỏe người dân và cộng đồng; giảm bớt gánh nặng tài chính khi sử dụng các dịch vụ y tế và làm giảm nguy cơ đói nghèo, đặc biệt đối với người nghèo, cận nghèo, người dân sống ở vùng sâu vùng xa, vùng miền núi.

Thứ hai, công tác truyền thông chính sách, pháp luật được coi trọng, đổi mới cả về nội dung, hình thức theo hướng hiện đại, đa dạng, linh hoạt, phù hợp từng nhóm chủ thể, đặc điểm từng vùng miền, phong tục tập quán, trong đó tập trung vào nhóm tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế theo hộ gia đình; triển khai nhiều giải pháp đẩy mạnh truyền thông trên phạm vi toàn quốc.

Định hướng này góp phần tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, sự đồng thuận, ủng hộ của toàn xã hội trong suốt quá trình xây dựng, tổ chức, thực hiện chính sách; giúp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; truyền cảm hứng, giúp người dân hiểu giá trị, ý nghĩa nhân văn của chính sách để vận động tham gia lưới an sinh xã hội một cách chủ động hơn.

Thứ ba, công tác phát triển người tham gia là nhiệm vụ chính trị quan trọng của ngành, góp phần mở rộng độ bao phủ, tiến tới mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân mà các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đề ra.

Diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp ngày càng được mở rộng với sự tăng trưởng ấn tượng.

Tới hết năm 2022:

Số người tham gia bảo hiểm xã hội là 17,5 triệu người, đạt 38,08% lực lượng lao động trong độ tuổi. Trong đó, số tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên hơn 16 triệu người năm 2022, tăng hơn 7,5 lần.

Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 1,5 triệu người năm 2022, tăng 250 lần).

Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên hơn 14,3 triệu người năm 2022, tăng gần 2,4 lần.

Số người tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên hơn 91,1 triệu người năm 2022, tăng 12,8 lần, đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số, cơ bản hoàn thành mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

Thứ tư, công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện kịp thời, đúng quy định. Đặc biệt, ngành nỗ lực chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ cho người tham gia căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia, bảo đảm nguyên tắc "đóng-hưởng"; phương thức hoạt động của hệ thống được đổi mới theo hướng phục vụ.

Kết quả từ năm 1995 đến hết năm 2022 cho thấy, toàn ngành đã giải quyết cho khoảng hơn 136 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe. Từ năm 2010 đến hết năm 2022 phối hợp giải quyết cho gần 8,7 triệu người hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Đến cuối năm 2022, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khoảng 3,3 triệu người. Từ năm 2003 đến 2022, toàn ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho hơn 2,368 tỷ lượt người.

Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và người lao động, 3 năm qua (từ năm 2020 đến năm 2022), ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam tập trung huy động mọi nguồn lực, trên nền nguồn dữ liệu sẵn có để triển khai kịp thời các gói hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Tổng số tiền hỗ trợ tới hơn 47,2 nghìn tỷ đồng, trong đó, có 99,3% người nhận các khoản hỗ trợ qua tài khoản ngân hàng.

Trong lúc khó khăn, việc chi trả tiền hỗ trợ nhanh gọn, chính xác đến tận tay người hưởng khi gặp khó khăn có ý nghĩa quan trọng. Hoạt động này giúp ổn định đời sống người lao động, phục hồi sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò chủ động, quyết liệt, tinh thần trách nhiệm, sự nỗ lực của ngành trong công tác bảo đảm an sinh xã hội cho người tham gia trong bối cảnh đặc biệt khó khăn - chưa từng có tiền lệ do dịch bệnh gây ra, cũng như góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Chính phủ.

Với kết quả đạt được, tại Hội nghị Ban Chấp hành Hiệp hội An sinh xã hội ASEAN (Hội nghị ASSA) lần thứ 39, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã vinh dự nhận Giải thưởng “Thực tiễn hiệu quả về giải pháp chính sách của Việt Nam hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp”.

Thứ năm, với công tác quản lý tài chính, đầu tư quỹ: Quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã trở thành các quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội.

Quy mô các quỹ bảo hiểm tăng qua từng năm, khẳng định tính bền vững, bảo đảm cân đối trong dài hạn, nhờ đó người lao động và nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng khi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Tỷ lệ chi từ nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội ngày càng tăng; tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho bảo hiểm xã hội ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm an sinh xã hội.

Thứ sáu, công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của ngành được đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt.

Theo đó, các thủ tục hành chính đã được rà soát, cắt giảm tối đa; đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh giao dịch điện tử, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến nhằm tạo thuận lợi nhất cho người tham gia; toàn bộ các quy trình nghiệp vụ giải quyết chính sách của ngành đều được thực hiện trên phần mềm liên thông, chia sẻ dữ liệu với các phần mềm nghiệp vụ khác và cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành; công tác chuyển đổi số của ngành được tập trung triển khai quyết liệt và hoàn thành hầu hết các chỉ tiêu về xây dựng Chính phủ điện tử mà Quốc hội, Chính phủ đặt ra…

"Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ"

Phóng viên: Có thể thấy, công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của ngành đã mang lại lợi ích lớn cho người tham gia, thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được các cấp các ngành và cộng đồng xã hội đánh giá cao. Tổng Giám đốc đánh giá thế nào về những thay đổi mang tính “đột phá” này của ngành?

Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Mạnh: Với phương châm "Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ", ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đặc biệt coi trọng và đã tập trung mọi nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ, từng bước hiện đại hóa các hoạt động nghiệp vụ của ngành, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số; được các cấp các ngành cùng cộng đồng doanh nghiệp, người dân ghi nhận, đánh giá cao. Việc chuyển đổi phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, tác phong làm việc chuyển từ hành chính sang phục vụ của ngành đã được triển khai quyết liệt, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam nỗ lực vì sự nghiệp an sinh xã hội ảnh 2

Đáng chú ý, trong những năm gần đây, công tác chuyển đổi số của ngành đã có những bước tiến vững chắc, mang lại những thay đổi đột phá, góp phần kiến tạo và xây dựng thành công ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam số theo đúng định hướng về Chính phủ số của Đảng, Nhà nước ta.

Hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành liên tục được làm giàu, cập nhật với thông tin của hơn 98,7 triệu người dân; kết nối liên thông với gần 13 nghìn cơ sở khám, chữa bệnh; có khoảng 620 nghìn đơn vị đăng ký và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

Hệ thống giao dịch điện tử và Hệ thống Thông tin giám định bảo hiểm xã hội tiếp nhận khoảng 300 triệu hồ sơ giao dịch trực tuyến/năm; thực hiện hơn 500 triệu xác thực và chia sẻ thông tin với các Bộ, ngành địa phương… Đây là những tiền đề quan trọng cho công tác tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên môi trường số; là nền tảng trong việc chuyển đổi số, ứng dụng các công nghệ Big Data, AI nhằm mục tiêu trở thành tổ chức an sinh xã hội hiện đại của ngành.

Thực hiện Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị đầu tiên đã kết nối thành công với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư ngay khi được đưa vào vận hành chính thức.

Hệ thống đã xác thực hơn 74,1 triệu thông tin nhân khẩu có trong cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đồng thời, ngành đã cung cấp, chia sẻ gần 72,3 triệu lượt thông tin cho cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Đến nay, đã có hơn12,2 nghìn cơ sở khám, chữa bệnh tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp (chiếm 95,4% tổng số cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế), với hơn 10,5 triệu lượt tra cứu thông tin bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp thành công phục vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế…

Trong 4 năm liên tiếp từ 2017 đến 2020, Bảo hiểm xã hội Việt Nam được đánh giá là cơ quan triển khai hiệu quả và được xếp hạng 2 trong khối bộ, ngành và đứng thứ nhất bảng xếp hạng Chính phủ điện tử khối cơ quan thuộc Chính phủ.
Mới đây, tại Báo cáo Chỉ số đánh giá chuyển đổi số do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đứng thứ 3 trong Bảng xếp hạng và đứng đầu trong Khối cơ quan Trung ương thuộc Chính phủ.

Với nguồn cơ sở dữ liệu được cập nhật thường xuyên và hệ thống công nghệ thông tin phủ rộng, việc kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam với các bộ, ngành giúp chuẩn hóa dữ liệu, vừa phục vụ công tác quản lý vừa phục vụ cho việc cải cách, liên thông thủ tục hành chính góp phần xây dựng Chính phủ điện tử, vì quyền - lợi ích của người dân, đơn vị và doanh nghiệp. Đây cũng là minh chứng cho thấy công tác chuyển đổi số của ngành đang có hướng đi đúng, đem lại những kết quả tích cực, góp phần phục vụ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng tốt hơn.

Triển khai các giải pháp theo định hướng “kiến tạo”

Phóng viên: Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và hoàn thành mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần tập trung những giải pháp gì trong thời gian tới, thưa ông?

Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Mạnh: Để tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền vững hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, chúng tôi xác định các giải pháp theo định hướng “kiến tạo” phải được toàn ngành triển khai với tinh thần chủ động, đồng bộ và toàn diện.

Cụ thể, thời gian tới, toàn ngành sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng tâm.

Thứ nhất, tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; Nghị quyết số 125/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; các đề án, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo các lộ trình đến năm 2025, 2030); tổ chức thực hiện có hiệu quả các Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Luật An toàn vệ sinh lao động,…

Thứ hai, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội tổ chức, thực hiện tốt các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước và đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác truyền thông cả về nội dung và hình thức theo hướng chuyên nghiệp, đúng trọng tâm, trọng điểm; phù hợp với từng nhóm đối tượng. Trong đó, tập trung vào nhóm người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế theo hộ gia đình và người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Thứ tư, bảo đảm diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tiếp tục phát triển một cách bền vững; giải quyết, chi trả đầy đủ, kịp thời các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người tham gia; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Trân trọng cảm ơn ông!