Ao làng trong vắt - Truyện ngắn của VŨ ÐẢM

ND - O nằm ở đầu làng, cạnh con đường chính. Ao rộng và sâu, chỗ nông nhất người lớn lội cũng ngập đến bụng. Nước ao trong vắt, là nguồn nước ăn của dân làng, là môi trường sống bình yên của lũ tôm, cua, cá. Ao còn là nơi thoát nước về mùa mưa, là lá phổi khổng lồ điều hòa khí hậu về mùa hè cho làng thêm trong lành, mát mẻ.

Vào ngày hội làng, chín cô thiếu nữ được tuyển chọn với những tiêu chuẩn hết sức khắt khe, xinh nhất làng và đặc biệt phải còn trong trắng, đội chín bình nước lấy ở ao làng mang về đền để các cụ tắm rửa cho Thành hoàng.

Thành hoàng là một vị tướng, trong một trận đánh, đạo quân của ông bị quân giặc đánh bại, không để rơi vào tay giặc, ông đã trẫm mình xuống ao làng. Thù ông vì đã chỉ huy quân sĩ anh dũng đánh trả, làm cho quân giặc chết rất nhiều, tên tướng giặc đã xua quân lính xuống ao mò xác ông, hòng vớt lên băm nát để trả thù nhưng mò tìm mãi chẳng thấy. Tên tướng giặc tức giận nhảy ùm xuống ao, tiếp tục hò hét bọn lính mò tìm bằng được xác ông; đang lặn ngụp, bỗng tên tướng bơi nhanh vào bờ, ôm cổ kêu rống lên, thì ra một con cua càng to tướng đã cắp đúng vào yết hầu tên tướng. Bọn giặc cho rằng ao làng có ma nên sợ hãi bơi hết vào bờ. Giặc vừa đi khỏi làng, xác ông nổi lên, gió đưa bồng bềnh như thể một người đang bơi ngửa. Dân làng vớt xác ông lên, khâm liệm, làm đám ma linh đình và chôn ông ngay trên mảnh đất hình thang ở cạnh ao làng. Cũng từ đấy, ao làng có một đặc điểm kỳ lạ pha chút huyền bí là rất nhiều cua. Ði trên đường, người ta có thể nhìn thấy những con cua càng to, mình đen bóng bò lổm ngổm trên các đám bèo, cành sen hay bụi cỏ mọc quanh bờ ao. Vào những trưa hè nóng nực, người ta còn thấy vô số con cua bò lên mặt đường làng, giương đôi mắt đen bóng nhìn đất, ngắm trời.

Ngày tôi còn là trẻ trâu thì chị Xuyến đã là một thiếu nữ xinh đẹp. Mặt trái xoan, dáng thắt đáy lưng ong, da trắng, nhưng đặc biệt hơn là chị có mái tóc đen dài chấm gót. Mỗi lần gội đầu, chị đều phải nhờ thêm một người nữa phụ giúp. Chị là niềm tự hào, kiêu hãnh của làng. Ở làng, không ai là không yêu mến chị; chị không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết.

Chị Xuyến bán bún riêu cua ở chợ làng, mỗi lần theo mẹ đi chợ, tôi đều bắt mẹ dẫn lại hàng chị ăn bún. Bún riêu của chị ngon, rẻ nên rất đông khách. Tôi vừa ăn vừa ngắm chị. Một lần mải mê ngắm chị, tôi đánh rơi bát bún xuống chân, bị bỏng, mất mười hai ngày mới khỏi. Mẹ tôi sợ quá không cho tôi ăn bún nữa, nhưng khi có ai cho tiền, tôi đều lén mẹ ra hàng chị ăn bún. Sau này, khi đã sống ở thành phố, mỗi lần về quê, tôi đều không quên ra hàng chị làm một bát bún riêu. Một dạo tôi đưa cô vợ mới cưới người Hà Nội về quê và hùng hồn bảo sẽ chiêu đãi nàng một món ăn đặc sản cả nước này, cả thế giới này chỉ làng tôi mới có. Tôi đưa vợ ra chợ làng, vào hàng bún riêu của chị Xuyến. Nhìn thấy vợ chồng tôi, chị Xuyến mỉm cười hỏi tôi dẫn vợ về trình làng đấy à? Tôi đáp vâng, kèm theo một câu nói đùa, không phải dẫn về trình làng mà dẫn về để thưởng thức món bún đặc sản của chị. Chị bảo, nếu rảnh rỗi đưa vợ đến nhà chơi. Tôi cảm ơn chị rồi đưa vợ về nhà. Trên đường đi, vợ tôi bảo có phải món bún riêu vừa ăn đó là đặc sản cả nước, cả thế giới chỉ ở làng mới có đó phải không? Tôi đáp, phải. Vợ tôi cười bảo tưởng gì chứ bún riêu ở thành phố có mà đầy. Ngực tôi nhói đau, nhưng chợt nghĩ, nàng không sinh ra ở làng quê nên không thể hiểu được những người dân quê. Trong mỗi bát bún riêu, ngoài công sức của chị, còn chứa đựng những giá trị không thể quy ra tiền bạc.

Năm chị hai mươi tuổi, mẹ chị bị liệt nửa người, hằng ngày chị phải ra ao làng mò cua đem ra chợ bán, lấy tiền nuôi gia đình, thuốc thang cho mẹ. Cua quá rẻ vì nhiều người bán. Chị học cách làm bún riêu rồi mở hàng bán bún riêu ở chợ làng. Những ngày đầu mở hàng, chị gặp khá nhiều phiền toái. Bấy giờ mọi cái đều là tập thể, nên người ta không muốn cho chị mở quán bán bún riêu. Do gia đình chị quá túng bấn, cha ở mặt trận, hai em đang đi học, xã họp bàn, xin ý kiến mãi, chị mới được mở hàng. Những ngày còn được mẹ cho đến hàng chị ăn bún riêu, tôi đều thấy anh Thương giúp chị gánh bún, rửa bát. Anh Thương ở cuối làng, không có họ hàng thân thích gì với nhà chị, lại đến giúp chị, tôi thấy lạ quá liền hỏi mẹ. Mẹ tôi bảo anh Thương mồ côi cả cha lẫn mẹ, anh sống với bà nội, năm ngoái bà anh chết, thương anh bơ vơ, chị đưa anh về nhà ở. Anh Thương người cao to, đẹp trai, nước da mầu đồng thau, đôi mắt lúc nào cũng buồn như chực khóc. Gánh bún, rửa bát cho chị được ba năm, anh Thương được một người chú họ đưa lên thành phố làm nghề bốc vác. Con gái ông giám đốc phải lòng anh. Năm sau anh cưới vợ, chuyển ngành. Không hiểu do bận mải công tác hay do mặc cảm về thân phận hồi nhỏ mà không thấy anh về làng cũng chẳng thấy thư từ gì. Anh Thương đi, hai người em thay nhau giúp chị làm công việc của anh Thương. Ðược bốn năm họ cũng lần lượt ra đi, cô em gái lấy chồng còn cậu út ra trận. Ngày tiễn con trai lên đường, mẹ bảo chị:

- Bệnh tình của mẹ đã khỏi, các em đều trưởng thành, chữ hiếu như vậy con đã làm trọn, giờ con hãy nghĩ đến chuyện chồng con đi!

- Ðàn ông nhà ta đều ra trận, con phải thay cha, thay các em phụng dưỡng mẹ. Ngày cha ra đi, mẹ hứa với con, mẹ sẽ cho con ở nhà với mẹ suốt đời, lẽ nào mẹ đã quên.

Nói xong, chị ôm mẹ, van mẹ đừng bao giờ nhắc đến chuyện chồng con của chị nữa. Mẹ chị rơm rớm nước mắt, bà đâu ngờ lời hứa vu vơ của mình với đứa con gái đầu lòng năm chị mười bốn tuổi, bây giờ bà phải buộc lòng thực hiện. Lời hứa, bà nói với chị vào ngày bà tiễn chồng ra trận. Khi chồng bà vừa ra khỏi nhà, chị lao vào ôm chặt lấy cha, khóc không cho cha đi. Bà đã phải dỗ dành chị mãi, lúc sau chị mới buông chân cha. Nắm chặt tay mẹ, chị bắt bà phải hứa, nếu chị cho cha đi, bà sẽ cho chị ở nhà nuôi mẹ, chị không phải đi lấy chồng. Bà biết tính chị, mỗi lần bà nói mua cho chị cái gì hay cho chị đi chơi, chị đều bắt bà hứa và thực hiện bằng được nên khi nghe chị nói, bà đã hứa cốt cho chị bằng lòng để chồng đi đỡ khỏi vương vấn. Lời hứa ấy bà quên ngay sau đó nhưng chị đã không quên. Từ năm mười bảy tuổi đến nay, chị đã nhắc lại nó hàng trăm lần mỗi khi mẹ giục chị đi lấy chồng.

Những người đàn bà có chồng con ra trận đều chung một niềm mong ước chiến tranh sớm kết thúc để họ được sum họp. Mẹ chị cũng là người đàn bà trong số ấy, nhưng nỗi mong ước của mẹ chị còn thêm một phần nữa, ngoài việc đoàn tụ, còn chuyện chồng con của chị. Khi những người đàn ông trong nhà đã khoác ba-lô trở về, chị sẽ không còn lý do để từ chối chuyện chồng con. Tuy đã lớn tuổi nhưng chị vẫn đẹp, vẫn có nhiều người dạm hỏi chị. Tối nào mẹ chị cũng chống gậy lần mò sang nhà ông Trưởng để nghe đài bán dẫn. Ðến nhà, vừa thấy ông, mẹ chị đã hỏi ngay: "Chiến tranh đã sắp hết chưa hả ông?". Ông Trưởng vặn to chiếc đài, gân cổ trả lời mẹ chị bằng cái giọng thuốc lào khàn khàn: "Sắp rồi, ta đang thắng lớn". Mẹ chị tựa chiếc gậy vào tường, ngồi xuống giường, nghiêng đầu về phía chiếc đài đặt trên bàn, lắng nghe chương trình thời sự. Hơn tám giờ mẹ chị mới về. Thấy chị đang làm cua ở dưới bếp, bà không nói gì, chỉ đứng nhìn chị một lúc rồi lộc cộc lê đôi guốc lên nhà. Buông chiếc màn thô nhuộm nâu, mẹ chị lên giường nằm, nghĩ về những người đàn ông ra trận và những người đàn bà ở làng quê. Những người đàn ông ra trận phải đối mặt với bom đạn và cái chết. Còn những người đàn bà ở quê thở dài mong đợi. "Chiến tranh thật là khủng khiếp!". Vào cái đêm cuối cùng của chiến tranh, mẹ chị đã thốt lên như vậy.

Ít ngày sau, mẹ chị lặng lẽ ra đi. Sau tang mẹ, tóc chị bạc và rụng rất nhiều. Chị tìm mọi cách để giữ mái tóc dài bấm gót của mình mà không được. Mỗi lần chị chải đầu, từng nắm tóc tuột ra cuốn lấy lược. Nhưng thật kỳ lạ, đúng bốn mươi chín ngày mẹ, tóc chị thôi rụng. Mái tóc dài mượt mà ngày nào giờ chỉ còn ngang lưng. Người làng quá quen thuộc hình ảnh chị ngồi hong tóc trên chiếc sào dưới bóng cây mít, nay không còn thấy nữa, ai cũng ngẩn ngơ như vừa mất đi một vật gì quý giá. Con bé Hằng cạnh nhà mà chị thường nhờ phụ giúp gội đầu, đã khóc sưng mắt khi thấy mái tóc ngắn ngủn của chị. Chị đã phải động viên, an ủi nó, rằng mái tóc của chị thương xót mẹ nên rụng đi ít hôm, chỉ vài ba bữa nữa nó lại đen, lại dài ra. Khóc nhiều, tóc thương nhớ mẹ sẽ không dài ra nữa. Con bé tưởng thật, thôi không khóc, bắt chị cho nó mớ tóc rụng, hằng ngày trải ra giường, buộc chặt một đầu, ngồi tết tóc đuôi sam. Ngay cả tôi, khi ra hàng chị ăn bún riêu, nhìn tóc chị, nước mắt tôi trào ra. Mái tóc chị đã một lần cứu sống tôi và thằng Tý khi chúng tôi còn là những đứa trẻ trâu. Ðó là những ngày hè lộng gió, chúng tôi ngồi vắt vẻo trên lưng trâu từ cánh đồng về nhà, bắt gặp chị đi ngang qua ao làng, cả lũ chúng tôi đang chí chóe cãi nhau bỗng im bặt, phóng mắt nhìn vào sau lưng chị. Từ đấy, một làn tóc đang chấp chới bay trong gió, lúc lên cao, lúc sà xuống, khi tụm thành một dải dài, khi xòe ra như một chiếc quạt giấy khổng lồ. Cũng một chiều hè, khi lũ chúng tôi đang vắt vẻo trên lưng trâu ngắm làn tóc chị bay trong gió thì đột nhiên thằng Tý bị con ve trâu đốt ở sau lưng, giơ tay vỗ trượt, mất đà lăn tõm xuống ao làng. Từ lưng trâu, tôi vội nhảy ùm xuống ao cứu thằng Tý. Nhưng tôi chẳng thấy Tý đâu mà chỉ thấy nước ao ồng ộc chảy vào mồm mình. Khi sắp bị hà bá nhấn chìm thì tay tôi quờ được một đám dây rợ lùng nhùng. Ðám dây rợ cứu sống chúng tôi chính là mái tóc của chị Xuyến. Chị đã nhảy xuống ao, nước sâu ngập đầu, bám vào một rễ cây, nhúng ướt mái tóc, quăng về phía chúng tôi...

Chiến tranh kết thúc, hai người đàn ông nhà chị ra trận chỉ có một người trở về, người ấy là cha chị. Ông được thưởng nhiều huân chương, ông là thương binh. Mất hai ngày chống nạng đi thăm hỏi bà con trong làng, ngày thứ ba ông mới có thời gian trò chuyện với chị. Ông bảo:

- Ở chiến trường cha đã biết tất cả, mẹ viết thư nói hết với cha. Bây giờ cha đã về, con tính sao?

Nhìn cha với ánh mắt cầu khẩn, chị đáp:

- Mẹ đã mất, em đã hy sinh, con chỉ xin cha cho con ở nhà để phụng dưỡng cha.

Cha chị không nói gì, ông thấu hiểu tấm lòng con gái, người mà ông hết lòng yêu quý cảm phục. Chị đã thay ông làm trụ cột gia đình. Chị là điểm tựa tinh thần to lớn của ông. Ông thường nói với đồng đội, sở dĩ ông lập được nhiều chiến công, là do ông có một hậu phương vững chắc. Hậu phương ấy chính là "thằng con trai" đầu lòng của ông. Ước nguyện của chị là vậy, vợ ông và ông đều không muốn, nhưng làm sao có thể ngăn cấm được khi mà vào tuổi mười bốn, cái tuổi còn non trẻ, chị đã quyết chí suốt một đời tôn thờ chữ hiếu. Từ đôi mắt nâu của ông, hai giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống.

- Sao cha lại khóc? - Chị cố kìm nén không cho nước mắt trào ra.

Giờ thì cha chị đã trở về với cuộc sống của một người nông dân. Tối tối ông ngồi bên ngọn đèn khều gạch cua giúp chị. Những con cua ở ao làng chẳng những đã cứu giúp gia đình ông mà còn cứu thoát cả làng khỏi nạn đói năm Ất Dậu. Cảnh tượng hàng trăm người, hình hài chỉ là bộ xương bọc da, quần áo tơi tả, lặn ngụp xuống ao làng mò cua, bắt được con nào cho vào mồm nhai ngấu nghiến, mãi mãi còn ghi dấu ấn trong tâm trí ông. Ông chợt nghĩ, sao không đề nghị cấp trên cấp bằng di tích lịch sử - văn hóa cho cái ao làng.

Có thể bạn quan tâm