ND - Theo dòng lịch sử, chúng ta tạm chia ra ba giai đoạn: Ðông Sơn, Ðại Việt và thời đại Hồ Chí Minh.
- Thời kỳ Ðông Sơn: Cho tới ngày hôm nay, chúng ta chưa có bất kỳ một tài liệu nào cho biết việc sử dụng âm nhạc của người Việt cổ trong nghi lễ thờ cúng các vị thần, hay nói đúng hơn là việc cúng tế nhằm giải thoát những tác động kỳ bí của thiên nhiên tới con người. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có những căn cứ để đi đến những nhận định một cách khách quan rằng, ngay từ buổi sơ khai, người Việt cổ đã sử dụng âm nhạc trong những nghi lễ nêu trên. Những nhạc khí thường dùng rất gần với dụng cụ lao động của việc săn bắt, hái lượm với cách diễn tấu thô sơ như gõ, vỗ, đấm, đập, rập, quẹt và những hình ảnh trên trống đồng cũng cho thấy, việc tạo ra những âm thanh phối hợp với những tiếng hú hét cùng với những động tác nhảy múa được thể hiện trên những phù điêu chung quanh mặt trống đã phần nào mô tả rõ việc thực hiện những nghi lễ tế thần của người Việt cổ.
- Thời kỳ Ðại Việt: Từ Ðinh - Lê - Lý - Trần, âm nhạc đã tiếp cận rất gần với đời sống tinh thần của cư dân Ðại Việt và gây được hiệu quả văn hóa trở lại cho công chúng. Thời kỳ này, tính văn hóa trong âm nhạc sớm được xem như hiện tượng hiển nhiên trong đời sống văn hóa và phát triển không ngừng. Nhạc luật cũng ra đời trong thời kỳ này. Do vậy nước ta đã có âm nhạc chuyên nghiệp, quy chuẩn chất liệu trong việc chế tác nhạc cụ (Mộc - Bào - Thổ - Cách - Kim - Thạch - Trúc - Ty) đến việc quy chuẩn âm sắc cho các nhạc cụ ở từng loại như hơi, gẩy, vĩ kéo, mặt da, kim loại cho tới việc biên chế cố định cho dàn nhạc, trong cung đình cũng như ngoài dân chúng (Nhạc lễ, Nhã nhạc, Bả lệnh, nhạc của các giáo phường và tục nhạc nơi thôn dã).
Tiến trình hình thành và phát triển của âm nhạc giai đoạn này dù sao cũng không thể thoát khỏi sự thăng trầm của lịch sử. Từ không đến có, từ có trở thành không, từ chỗ tích cực tỏa sáng cho nền văn hóa rồi bỗng chốc thành tiêu cực, phi văn hóa hoặc ngược lại.
- Sau khi đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, chính quyền về tay nhân dân, dưới ánh sáng đường lối văn hóa văn nghệ của Ðảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu âm nhạc nước ta đã thực hiện việc sưu tầm, bảo tồn vốn cổ và phát huy tối đa những giá trị nghệ thuật âm nhạc dân tộc do nhân dân sáng tạo. Nhờ vậy, các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống được sống lại với sức sống mới, được bạn bè khắp nơi trên thế giới yêu thích, trân trọng.
Sự ra đời và sức biểu hiện độc đáo của bài Lưu Thủy
Sau khi khảo sát toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của âm nhạc nghi lễ nước ta, trừ thời kỳ Ðông Sơn, chúng tôi thấy một hiện tượng âm nhạc rất đặc biệt, nó khác với nhiều loại hình âm nhạc nghi lễ ở các quốc gia trên thế giới. Ðó là bản Lưu Thủy, theo chúng tôi có thể nó xuất hiện từ thời Lý cùng với các nhạc khí với biên chế đầy đủ một dàn nhạc được du nhập vào nước ta. Trên bệ đá cột chùa Phật Tích ở Tiên Du, Bắc Ninh, còn nguyên vẹn hình tám nhạc công trên tay cầm những nhạc cụ như Nhị, Sáo, Khèn, Trống... gồm tám thứ, điều đó cho thấy nó khớp với những nhận định của cụ Phạm Ðình Hổ trong "Vũ Trung tùy bút" khi đề cập tới văn hóa âm nhạc thời hậu Lê.
Trở lại với bản Lưu Thủy, chúng tôi thấy nó cũng đã xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa và Nhật Bản. Song điều cần nhấn mạnh ở đây lại là việc nó xuất hiện trên lãnh thổ quốc gia Ðại Việt xưa và Việt Nam ngày nay với tư cách hoàn toàn khác biệt. Nó đã được Việt Nam hóa ngay từ khi mới xuất hiện. Do vậy, điều khác thứ nhất về nhạc khí, dàn nhạc Trung Hoa có lúc dùng cả dàn nhạc, có lúc dùng cổ cầm hoặc Tỳ bà để diễn tấu bản Lưu Thủy như một tác phẩm không lời dành cho nhạc cụ và nó không mang tính nghi lễ như các nghệ nhân Việt Nam thường tấu, mà chỉ đơn thuần mô tả thiên nhiên, hình tượng âm nhạc ở đây khắc họa rõ nét cảnh "Nước chảy hoa trôi". Song nó cũng có sự giống nhau ở chỗ cùng mang tên Lưu Thủy, việc du nhập không làm cho các nghệ nhân Việt Nam xưa nay dập khuôn, mà luôn nêu cao tinh thần "bản địa hóa". Chính vì vậy, các bản nhạc, đặc biệt là "Mười bản Tầu" trong hệ thống nhạc cung đình Huế đã lập tức Huế hóa ngay phần giai điệu, có chăng còn giữ nguyên tên gọi cho từng bản (như Nguyên tiêu, Phẩm Tuyết, Phú lục, Bình bán, Mã vũ...).
Bản Lưu Thủy trong tay các nghệ nhân Việt Nam đã trải qua hàng thế kỷ nhưng sức sống của nó, tác dụng xã hội của nó thật không bản nhạc nào ở bất cứ quốc gia nào sánh kịp. Chỉ cấu trúc với một đoạn nhạc gồm hai câu rất giản dị, mộc mạc, cách tiến hành giai điệu không phức tạp, nhịp điệu, tiết tấu đơn sơ, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ diễn tấu nhưng sức chứa của Lưu Thủy là cả một thế giới tâm linh huyền diệu trong đó. Chẳng thế mà ngày nay chúng ta thấy tại các đình, đền, phủ khắp Thăng Long - Hà Nội cho tới các vùng quê xa xôi đều vang lên bản Lưu Thủy mỗi dịp hội hè đình đám.
Như chúng ta đã biết, đã nghe và cũng đã thấy rằng với mỗi môi trường diễn xướng đều có riêng một loại hình âm nhạc đáp ứng phù hợp. Hoặc nói cách khác trong việc hành lễ thì mỗi một nghi lễ đều bắt buộc phải có một nghi thức riêng biệt, và đương nhiên người nghệ nhân buộc phải soạn riêng cho nó một loại hình âm nhạc phù hợp. Ðiều đặc biệt ở đây là chỉ trên nền tảng cơ bản của một bản Lưu Thủy duy nhất mà chúng tôi đã đề cập ở phần trên. Tất nhiên về biên chế dàn nhạc có sự bổ sung hoặc thay đổi và việc diễn tấu cũng cần có sự biểu hiện khác nhau.
Âm nhạc nghi lễ trong các đình, đền, phủ Thăng Long - Hà Nội
Khi nói về âm nhạc nghi lễ tại các đình, đền, phủ ở Thăng Long - Hà Nội, chúng tôi đã nêu lên hai vấn đề chính ở các phần trên. Một là "Khái quát lịch sử sự ra đời của âm nhạc nghi lễ ở nước ta qua ba giai đoạn Ðông Sơn - Ðại Việt và Thời đại Hồ Chí Minh". Hai là "Sự ra đời và sức biểu hiện của bản Lưu Thủy". Có lẽ không cần diễn giải thêm nữa, vì thực chất để có bản Lưu Thủy, một nhạc phẩm độc đáo vừa mang tính chuyên dụng (dùng trong các nghi lễ dân gian), lại vừa mang tính đa dụng (dùng cùng lúc có thể trong nghi lễ Ðình, Ðền và Phủ) có một không hai đã lan tỏa trên khắp lãnh thổ nước ta từ hàng thế kỷ trước. Thăng Long - Hà Nội, nơi hội tụ tinh hoa của đất nước đã nuôi dưỡng những di sản văn hóa cội nguồn và để lại cho thế hệ ngày nay được thừa hưởng những báu vật. Chúng ta tự hào và tỏ lòng biết ơn các bậc tiền nhân và Hội Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã khơi dậy hào khí hôm nay để những viên ngọc trong kho tàng âm nhạc truyền thống Việt Nam mãi mãi được tỏa sáng.
Nhạc sĩ THAO GIANG
Trung tâm phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam