10 cuốn sách về nghề giáo và giá trị của giáo dục

NDO - Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam chọn lọc và giới thiệu những cuốn sách về nghề giáo, về những triết lý giáo dục đã làm nên những cường quốc trên thế giới, làm nên những nền giáo dục lấy con người làm trung tâm, lấy Chân-Thiện-Mỹ làm giá trị cơ bản và về những người thầy mãi mãi là ngôi sao sáng cho các thế hệ học trò, dù ở màu da nào, mang quốc tịch nào.
0:00 / 0:00
0:00
10 cuốn sách về nghề giáo và nhà giáo. (Ảnh: Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam)
10 cuốn sách về nghề giáo và nhà giáo. (Ảnh: Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam)

“Được học” – Educated (Tự truyện của Tara Westover, Nguyễn Bích Lan dịch)

Được học là câu chuyện về một cô gái người Mỹ phải đợi đến năm 17 tuổi mới được tiếp cận nền giáo dục. Nhưng chỉ 10 năm sau, cô đã giành học vị Tiến sĩ tại một trong những trường đại học danh giá nhất thế giới: Đại học Cambridge.

Cuốn tự truyện nói rất nhiều về con đường tự học của Tara Westover nhưng không thể quên vai trò của những người thầy, những vị Tiến sĩ, Giáo sư từng khuyến khích, giúp đỡ cô. Tiến sĩ Kerry: “Em có thể sẽ không được nhận nhưng nếu em được nhận thì nó có thể cho em một ý niệm nào đó về các khả năng của em”; Giáo sư Steinberg: “Tôi đã dạy ở Cambridge 30 năm…”, “Và đây là một trong những bài luận xuất sắc nhất mà tôi từng đọc”, “Cứ để chuyện học phí tôi lo”...

Có lẽ bản thân những người thầy, những vị Giáo sư, Tiến sĩ đó cũng không ngờ rằng với cô sinh viên mang đầy mặc cảm và ám ảnh đó, chỉ một ánh mắt ủi an, một lời khuyên ân cần đã đủ tạo ra bước ngoặt cuộc đời…

“Màu của nước” (Tác giả: James Mc Bride, người dịch: Nguyễn Bích Lan)

Màu của nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với người những người đàn ông da đen.

Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học.

Cách bà chọn trường lớp cho các con cho thấy vai trò của giáo viên và việc giáo dục trong nhà trường đã ảnh hướng không nhỏ tới cuộc đời của mỗi con người: “Hơn bất cứ ai khác, mẹ tôi, với sự ý thức cao về giáo dục… (đã cho chúng tôi)… học ở một số trường nhất định, được dạy bởi những giáo viên luôn khép học trò vào sự kỷ luật và khích lệ việc học tập, và mẹ tuân theo sự dẫn dắt của họ (những người thầy).

“Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản: Giáo dục và giáo dục lịch sử trong cái nhìn so sánh Việt Nam – Nhật Bản” (Tác giả: Nguyễn Quốc Vương)

Là một người quan tâm đến giáo dục và mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian du học tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương đã tìm tòi nghiên cứu và có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu có tính phản biện và đưa ra các phân tích mang tính độc lập về các vấn đề nóng của giáo dục Việt Nam.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay còn đang tranh cãi thì ở Nhật đã gặp phải cũng như đã giải quyết được cách đây hơn 70 năm.

Và để có được một xã hội Nhật Bản thịnh vượng như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua công cuộc cải cách giáo dục một cách toàn diện, thậm chí chấp nhận xóa bỏ toàn bộ nền giáo dục trước đó.

Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản đã đổi mới thành công bởi các nhà quản lý giáo dục Nhật Bản: Chú trọng “cải cách giáo dục từ dưới lên”, “được tiến hành bởi các giáo viên ở các trường học và bằng các “thực tiễn giáo dục”; coi chương trình chỉ là tham khảo; các môn học và phương pháp kiểm tra, đánh giá mới hoàn toàn mới so với trước.

“Kỷ luật tích cực trong lớp học - Xây dựng sự tôn trọng, tinh thần hợp tác và trách nhiệm trong lớp học” (Tác giả: Tiến sĩ Jane Nelsen, Thạc sĩ Lynn Lott và H. Stephen Glenn, người dịch: Max Bình)

Đây là một cuốn sách best-seller với hơn hai triệu bản được bán ra trên toàn thế giới. Ấn bản này được cập nhật với những công cụ mới nhất dành cho người giáo viên hiện đại “Thay đổi hoàn toàn cách giáo viên nghĩ về bản thân và học sinh của mình. Những hoạt động trong cuốn sách này cho chúng ta thấy việc học đã đi từ trí não tới trái tim như thế nào…”.

Thay vì phải chăm chăm kiểm soát hành vi của trẻ, giáo viên sẽ thực sự có thời gian dạy và truyền đạt kiến thức cho trẻ. Thay vì phải đối mặt với sự thờ ơ, bàng quan của trẻ, giáo viên sẽ tận hưởng sự hào hứng, tích cực và đầy động lực từ các em.

“Maria Montessori: Cuộc đời và sự nghiệp” (Tác giả: E.M. Standing, người dịch: Nguyễn Bảo Trung)

Cuốn sách cung cấp cho độc giả những kiến thức về cuộc đời và sự nghiệp của một trong những nhà giáo dục vĩ đại nhất thế kỷ XX - Maria Montessori. Bà đã khởi đầu với một ngôi trường mang tên Casa dei Bambini (Ngôi nhà Trẻ thơ) ở Roma năm 1907, sau hơn một thế kỷ đã có hơn 25.000 trường học mang tên Montessori với đầy hấp lực từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Phi... Những ghi chép của bà được gọi với tên Phương pháp Montessori ngày nay đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng trên toàn cầu.

Từ một bác sĩ tâm thần chuyên giúp đỡ những trẻ em chậm phát triển trí tuệ, một cơ duyên tình cờ đã đưa bà đến với sự nghiệp giáo dục trẻ thơ và bản thân bà đã không ngừng khám phá, nghiên cứu và tự hoàn thiện một triết lý giáo dục: hãy tôn trọng trẻ em và tìm cách cư xử với trẻ em một cách tự nhiên nhất có thể.

Tác giả Standing ví khám phá của Maria Montessori cũng vĩ đại ngang với Columbus khám phá ra châu Mỹ. Chỉ có điều, thế giới mà Columbus khám phá ra là bên ngoài; còn Montessori đã khám phá ra một thế giới bên trong - bên trong tâm hồn của trẻ em.

“Đời giáo dở khóc dở cười” (Tác giả: Colm Cuffe, dịch giả: Ngô Hà Thu)

Tác giả người Ireland, Colm Cuffe hiện vừa là một giáo viên tiểu học trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, vừa là một họa sĩ với phong cách vẽ hóm hỉnh, đáng yêu và rất thông minh.

Tác phẩm là tập truyện tranh hài hước tái hiện cuộc sống thường nhật của một người giáo viên điển hình: yêu nghề, hết lòng vì trẻ. Bên cạnh những phút giây được hưởng trái ngọt (khá là hiếm hoi) khi học trò ngoan, đáng yêu, hiếu học..., là (vô vàn) những câu hỏi trái khoáy rất đỗi hồn nhiên, nhưng người thầy chỉ biết “câm nín” hay “thở dài đánh thượt” với nét mặt khiến ai nhìn vào cũng phải bật cười (đặc biệt là khi nhìn vào đôi mắt của thầy).

Chắc chắn rằng, với truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt, Đời giáo dở khóc dở cười sẽ là món quà tri ân của những cô cậu học trò tới các thầy cô; và cuốn sách cũng sẽ là cây “cầu kiều” mà các bậc phụ huynh gửi tới những người thầy, người cô thay lời cảm ơn vì đã dành bao tâm sức trong sự nghiệp trồng người.

“Tro tàn của Angela” (Tác giả: Frank McCourt, người dịch: Nguyễn Bích Lan–Hoàng Nguyên)

Cuốn sách từng đoạt giải Pulitzer năm 1997 và là hồi ký của nhà văn người Mỹ gốc Ireland, cũng là giáo viên tiêu biểu được cả nước Mỹ kính trọng (với danh hiệu “Nhà giáo của năm) - Frank McCourt, dựa trên những ký ức thời thơ ấu của ông, Angela chính là tên của mẹ ông.

Tuổi thơ của McCourt là những ngày dài sống trong cảnh nghèo túng, bệnh tật, rác rưởi và thiếu thốn. Sự nghèo đói đeo đuổi lại thêm một người cha nghiện rượu khiến cho gia đình họ phải đi ăn xin từng bữa, nhặt nhạnh mọi thứ.

Cuốn hồi ký là sự trưởng thành của những đứa trẻ, trong đó có ảnh hưởng từ người thầy, điển hình là thầy O’Halloran, hiệu trưởng, đồng thời là người “dạy một lúc ba lớp trong cùng một phòng, lớp sáu, lớp bảy và lớp tám” tại ngôi trường mà Frank McCourt theo học.

“Ước vọng cho học đường - Những bài viết về giáo dục” (Tác giả: GS Huỳnh Như Phương)

GS. Huỳnh Như Phương là nhà giáo chuyên giảng dạy lý thuyết văn học, đồng thời là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học. Với tư cách một nhà giáo dạy văn, ông luôn ưu tư về nền giáo dục nước nhà, không ngừng trăn trở về văn học và nghề dạy học của bản thân. Trong hơn 40 năm làm việc, tác giả đã viết nhiều bài báo nhằm đóng góp ý kiến nâng cao chất lượng dạy và học.

“Ước vọng cho học đường” bao gồm 20 bài được lựa chọn trong hơn 100 bài viết về giáo dục của tác giả đã được đăng trên các báo và tạp chí hơn 40 năm qua. GS. Huỳnh Như Phương chủ ý chọn ra những bài viết mà ông tâm huyết để góp ý về nhiều vấn đề “nóng” trong giáo dục, như vai trò của người thầy, đổi mới giáo dục đại học, cải cách chương trình giáo dục phổ thông, biên soạn sách giáo khoa, tăng học phí ở bậc trung học… - những vấn đề đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Bằng lối viết điềm tĩnh nhưng sáng rõ, các bài viết bóc tách từng lớp sự kiện để tìm ra gốc rễ và kiến nghị giải pháp

“Trộm” (Tác giả: Kim Ryeo Ryeong, dịch giả: Nguyễn Ngọc Quế)

Hae-il - nhân vật chính trong “Trộm” là cậu bé biết mình có thể gọi bằng cái tên "thằng trộm vặt", nhưng không phải vì ham tiền, cũng không phải do túng thiếu hay đói khát. Chỉ đơn giản là bởi cậu có thể trộm, với đôi bàn tay linh hoạt đến không ngờ mà đôi khi nó tự nhận là không nghe theo những gì não nó chỉ đạo.

Lối viết truyện chồng truyện trong “Trộm” không chỉ cho chúng ta thấy những góc khuất trong tâm lý của những thiếu niên tuổi cận trưởng thành mà còn phản ánh nhiều thực trạng đa chiều khác nhau trong xã hội Hàn Quốc.

Ở tác phẩm này, tác giả Kim Ryeo Ryeong không đặt ra những chuẩn mực đạo đức, thước đo nơi trường lớp. Thay vào đó, cô đặt ra những câu hỏi cho giáo dục gia đình và trường học, mong muốn một cái nhìn sâu hơn từ người lớn và hy vọng sẽ bóc tách được dần những nút thắt trong lòng mỗi thiếu niên. Trong đó, sự thấu hiểu và sát sao của một người thầy luôn nhẹ nhàng, tế nhị với học trò, kể cả khi học trò là đứa ăn trộm: “Thầy biết việc trả đồ là một việc hết sức khó khăn. Dù sao cũng sẽ hồi hộp hơn cả lúc mang đi”… Cách thầy đồng hành và cổ vũ cậu học trò ấp trứng nuôi gà… đã đưa thầy trò xích lại gần nhau, với thông điệp “Mọi tổn thương đều có thể chữa lành, và trái tim yêu thương vô điều kiện chính là nguồn gốc của sự chữa lành đó”.

“Học thế nào bây giờ - Vận dụng 8 loại hình thông minh để giúp trẻ học tập tốt hơn” (Tác giả: Bruno Hourst, dịch giả: Nguyễn Khánh Trung)

Bruno Hourst là kỹ sư, nhà đào tạo và giáo viên người Pháp. Sau khi được đào tạo ở Úc và Mỹ, ông phát triển nền tảng cho “học tốt”. Ông chỉ ra những nghịch lý nơi trường học, như: Tại sao và nhân danh cái gì mà chúng ta đối xử với đứa trẻ trước khi đến trường và khi đến trường khác biệt đến vậy? Trong tình trạng hoàn toàn có ý thức, tại sao chúng ta bắt những đứa trẻ phải chịu đựng những điều mà chúng ta từ chối áp đặt cho các bé (trước khi đến trường), những điều mà chính người lớn chúng ta cũng không thể kham nổi? Tại sao trẻ mang chứng cận thị ngày càng sớm và càng nhiều, trong khi chúng được sinh ra với một đôi mắt hoàn hảo? Làm thế nào để chúng ta đã biến một đứa trẻ tò mò về mọi mặt, có khả năng học những điều cực kỳ phức tạp một cách dễ dàng đến kinh ngạc, thành một đứa trẻ lãnh đạm, chán ghét học tập và thường học tập sa sút, phải thường xuyên đe dọa (dưới hình thức này hoặc hình thức khác), và đôi khi trở thành nạn nhân của bệnh tật mà lạ lùng thay không có ai quan tâm đến cả? Tại sao người ta chấp nhận quá dễ dàng xem những đứa trẻ bị xếp loại như những đứa trẻ tăng động? Từ đâu ra điều nghịch lý tồi tệ cho là cần phải chịu đựng để học tập, cần phải ép buộc để học tập, trong khi việc học là một quá trình tự nhiên?

Trên cơ sở chỉ ra các nghịch lý nơi trường học, ông phân tích kỹ 8 loại hình trí thông minh giúp phát huy thế mạnh, tiềm năng của trẻ, đồng thời cung cấp các phương pháp giúp trẻ luôn tò mò, hứng thú với việc học…