Kết quả Báo cáo quốc gia về "Ðánh giá xói lở bờ biển Việt Nam" cho thấy: Tình trạng xói lở bờ biển ở nước ta đang có những diễn biến hết sức phức tạp ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ địa phương. Ðối với cấp độ quốc gia, xói lở bờ biển khu vực Bắc Bộ diễn ra phức tạp trên toàn chiều dài đường bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Kim Sơn (Ninh Bình). Có năm đoạn bờ bị xói lở liên tục từ năm 1930 đến nay là: Cát Hải, Bằng La (Hải Phòng); Thụy Xuân (Thái Bình); Giao Thủy, Hải Hậu (Nam Ðịnh). Hai khu vực Cát Hải và Hải Hậu hiện tượng xói lở đang diễn ra hết sức nghiêm trọng. Ở khu vực miền trung (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận), quá trình xói lở diễn ra tại hầu hết các kiểu cấu tạo bờ: sỏi cát; bùn sét; bùn cát..., song chủ yếu vẫn là bờ cát chiếm đến 94% tổng số đoạn bị xói lở. Ðiều đáng lo ngại, hiện nay đã có 121 đoạn bờ có công trình phòng hộ (như đê, kè, trồng cây) nhưng tình trạng xói lở vẫn diễn ra thường xuyên, nhất là ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận. Ở khu vực phía nam (từ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang), trong vòng 25 năm trở lại đây, hiện tượng xói lở khu vực này xảy ra phức tạp, nghiêm trọng trên nhiều đoạn bờ và diễn ra mạnh nhất ở: Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh); Ðông Hải (Trà Vinh); Ngọc Hiển, Ðầm Dơi và Trần Văn Thời (Cà Mau)..., đang trực tiếp đe dọa đến những công trình dân sinh kinh tế, phá vỡ đê, kè, gây ngập lụt, cũng như xâm nhập mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển kinh tế của vùng.
Ở cấp độ địa phương, tại một số tỉnh như Thanh Hóa có 18,1 km bị xói lở, tốc độ xói lở trung bình từ 15 đến 30 m/năm, khu vực xói lở mạnh nhất là Hoằng Hóa, Hậu Lộc và Sầm Sơn; tỉnh Quảng Bình, có 50 km bị xói lở; tỉnh Quảng Trị có 34 km bị xói lở... Trong khi đó, đối với các tỉnh khu vực phía nam, xói lở bờ biển đang diễn ra hết sức đáng lo ngại. Ðiển hình như dải bờ biển tỉnh Trà Vinh có dạng hình cung với chiều dài 50 km, có hai khu vực sạt lở mạnh nhất là bờ biển Hiệp Thạch dài khoảng4 km bị sạt lở với tốc độ từ tám đến 10 m/năm; khu vực bờ biển Nhà Mát chiều dài 8 km, bị sạt lở với tốc độ từ 15 đến 20 m/năm. Dải ven biển tỉnh Cà Mau, có chiều dài 254 km, đoạn bờ từ cửa sông Ðầm Dơi đến cửa Rạch Gốc dài khoảng 40 km, từ năm 1965 đến 2008 đường bờ biển đoạn này bị biển lấn vào đất liền đến 1,4 km...
Phó Tổng cục trưởng Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Vũ Sĩ Tuấn cho biết: Hiện trạng xói lở bờ biển ở nước ta đang ngày càng diễn ra phức tạp và nghiêm trọng. Nguyên nhân là do sự tổng hòa các yếu tố như: sự gia tăng của bão cả về tần suất lẫn cường độ trong bối cảnh biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng; các hoạt động của con người chủ yếu là chặt phá rừng ngập mặn; khai thác vật liệu (cát, san hô) ven bờ; xây dựng các đập điều tiết nước ở thượng nguồn các con sông... Hằng năm, Chính phủ đều xây dựng kế hoạch chỉ đạo, bố trí lực lượng, phương tiện..., đối phó với xói lở bờ biển, vỡ đê kè biển nói riêng và thiên tai nói chung. Tuy nhiên, do hệ thống chính sách về quản lý đất đai, tài nguyên - môi trường, văn hóa xã hội vùng ven biển chưa thống nhất, các chế tài thực thi pháp luật chưa nghiêm làm gia tăng xói lở bờ biển.
Phó Tổng cục trưởng Vũ Sĩ Tuấn cho rằng: Trước hết cần tiến hành đồng bộ và toàn diện các giải pháp từ vĩ mô đến vi mô, cả trực tiếp và gián tiếp, cũng như các giải pháp công trình và phi công trình phù hợp với từng bờ, cửa sông cụ thể. Tăng cường tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho người dân về các tai biến của thiên tai và các nguyên nhân cơ bản, trong đó có tác nhân của con người để người dân ý thức được việc thực hiện tốt các luật về Ðê điều, Bảo vệ môi trường, Bảo vệ và phát triển rừng, Tài nguyên nước... Sớm hoàn thiện và đưa vào thực thi Luật Phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai và xây dựng chiến lược phòng, chống xói lở bờ biển, cửa sông trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao.
Ngoài ra, sớm xác lập phương pháp bảo vệ đê, kè, bờ biển cho từng khu vực cụ thể; tăng cường cơ sở pháp lý, quy hoạch bảo vệ bờ biển, chống khai thác tài nguyên bừa bãi ở dải ven biển; đầu tư nghiên cứu, áp dụng các giải pháp, các kỹ thuật tiên tiến trong phòng, chống xói lở của thế giới, cũng như xây dựng được các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quan trắc giám sát định kỳ hiện tượng xói lở, bồi tụ để thông báo kịp thời đến người dân. Ðối với các vùng trọng điểm, cần nghiên cứu kỹ các nguyên nhân và cơ chế xói lở để đưa ra các biện pháp công trình phù hợp. Các công trình chống xói lở bờ biển cần ưu tiên giải pháp bảo vệ bãi, tăng khả năng chống xói lở của bãi và làm giảm tốc độ dòng ven bờ, trong đó kết hợp giải pháp công trình và phi công trình nhằm giảm chi phí đầu tư và phát triển bền vững hệ sinh thái ven bờ.