Những người được ví như “huyền thoại” mà chúng tôi kể ra đây, mỗi người đều có cách thức rất riêng trong việc tạo dựng, hồi sinh những cánh rừng. Tuy nhiên, tất cả đều có một điểm chung đó là tình yêu mãnh liệt với rừng sự tâm huyết nhằm gìn giữ môi trường xanh cho thế hệ mai sau!
Trả nợ rừng nơi đại ngàn Pù Mát
Khi nói đến ông Nguyễn Ngọc Lài, Giám đốc Lâm trường Con Cuông trước đây, người được nhà nước hai lần phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, tôi lại nhớ đến những lần theo ông đi từ văn phòng lâm trường bộ đến văn phòng của các đội trạm. Đâu đâu cũng thấy đồng loạt các câu khẩu hiệu do ông khởi xướng “Tất cả cho xây dựng vốn rừng”; “Tập trung cho sự nghiệp xây dựng vốn rừng”. Và khi nhắc tới Nguyễn Ngọc Lài người ta thường đùa vui về sự đối lập của hai lần đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động của ông: lần thứ nhất là “phá rừng”; Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới là “trồng rừng”.
Ông Nguyễn Ngọc Lài quê xã Thanh Thịnh, huyện Thanh Chương (cũ), tỉnh Nghệ An. Năm 1961, ông rời quê trở thành công nhân Lâm trường Con Cuông. Sau ba năm, ông trở thành tổ trưởng sản xuất, 5 năm liền được công nhận là Tổ Lao động xã hội chủ nghĩa. Năm 1968, Đội khai thác gỗ Trung Chính do ông làm đội trưởng đã có nhiều sáng kiến cải tiến hình thức khai thác gỗ và trở thành nòng cốt của lâm trường. Năm 1985, ông vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
Khi nhắc tới Nguyễn Ngọc Lài người ta thường đùa vui về sự đối lập của hai lần đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động của ông: lần thứ nhất là “phá rừng”; Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới là “trồng rừng”.
Năm 1988 ông được đề bạt làm Bí thư đảng ủy kiêm Phó Giám đốc Lâm trường Con Cuông. Năm 1991, khi ông chính thức giữ chức vụ giám đốc, cũng là giai đoạn chuyển đổi, kết thúc thời kỳ “phá rừng”. Rừng giàu gỗ đã bị khai thác gần như cạn kiệt, trong lúc vốn của Lâm trường Con Cuông chỉ còn 40 triệu đồng. Khi ấy, ông Lài vẫn mang trong mình nỗi trăn trở về mối nợ “phá rừng”.
Khi Chính phủ đưa ra chương trình hỗ trợ mới, ông Lài như người trôi sông vớ được bè. Ông nhanh chóng chỉ đạo đơn vị phục hồi, tái tạo vốn rừng. Đất trống, đồi núi trọc và trong lâm phần hơn 20 nghìn ha của lâm trường được phủ xanh. Từ những suy nghĩ tìm tòi, ông đã đúc kết thành câu khẩu hiệu hành động cho lâm trường thực hiện hiệu quả đó là: “Cải tạo cồn vệ; cải tạo khe chọ; cải tạo đồi núi và chế biến sản phẩm”. Theo ông giải thích, cải tạo cồn vệ là lấy nông nghiệp làm nền tảng cho an cư lập nghiệp, là điều kiện phát triển lâm nghiệp bền vững. Cải tạo cồn vệ là khai hoang phục hóa đất gò đồi, đất bằng, đất vệ, khai thác hết tiềm năng đất hiện có… Và đây chính là bước ngoặt để ông lần thứ hai được phong Anh hùng.
Ông Lài và công nhân.
Ông Lài và công nhân.
Đi hết các cánh rừng của “ông Lài” ở khe Xộc, Khe Luông…, bên Thác Khe Kèm, vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát mới thấy hết vẻ đẹp hùng vĩ của một đại ngàn xanh giá trị nhiều tỷ đồng và hiểu hết ý nghĩa của cụm từ biến “rừng nhác” (rừng nghèo) thành “rừng siêng” (rừng giá trị kinh tế). Và hình như từ đây, ông cũng vơi bớt món nợ với những cánh rừng từng một thời bị ông cùng công nhân triệt hạ. Những cánh rừng nay đã trở thành rừng có giá trị kinh tế cao, để rồi đơn vị của ông được ghi nhận là cánh chim đầu đàn trong ngành lâm nghiệp Nghệ An.
Nhắc lại những kỷ niệm về ông Lài, vẫn không quên một giám đốc đặc biệt “tự phạt mình”. Ngày còn đương chức, ông và tập thể lâm trường ra quy chế, nếu bộ phận nào không hoàn thành tốt nhiệm vụ qua xếp loại hằng tháng, hằng quý thì tổ đó phải nhận cờ xanh, tốt lên mới được thay cờ đỏ và đội trưởng cho đến giám đốc cũng phải chịu trách nhiệm liên đới bằng hình thức xử phạt bằng ngày lương tùy theo mức xếp loại.
Đi hết các cánh rừng của “ông Lài” ở khe Xộc, Khe Luông…, bên Thác Khe Kèm, vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát mới thấy hết vẻ đẹp hùng vĩ của một đại ngàn xanh giá trị nhiều tỷ đồng và hiểu hết ý nghĩa của cụm từ biến “rừng nhác” (rừng nghèo) thành “rừng siêng” (rừng giá trị kinh tế).
Điều muốn nói thêm, ông không chỉ nổi tiếng là người hồi sinh những cánh rừng thuộc lâm phần Lâm trường Con Cuông với hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Ông còn được biết đến với vai trò là Người đại biểu nhân dân gương mẫu, tận tụy trong bốn khóa được tín nhiệm được bầu làm đại biểu Quốc hội IV, V, VII, VIII.
Với những đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, phát triển vốn rừng và nhiều lĩnh vực khác, năm 2000, Lâm trường Con Cuông được Nhà nước phong tặng Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới và Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2005. Giám đốc Nguyễn Ngọc Lài vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động lần thứ hai vào năm 2002. Sau chuyển đổi theo tinh thần Nghị quyết 28/BCT và Nghị định 200/CP từ Lâm trường Con Cuông thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Người hồi sinh cánh rừng nơi cửa biển
Xuôi về cửa biển xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu (cũ), trước khi ngắm cảnh biển hoang sơ ai cũng ghé thăm và trầm trồ trước bạt ngàn xanh của Rú Xước. Đó là cánh rừng do ông Lê Duy Nguyên dày công tạo dựng nhiều năm nay.
Ông Lê Duy Nguyên, sinh năm 1947 quê xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu (cũ), được mệnh danh là ông chủ số 1 trong làng doanh nghiệp trồng rừng cả nước. Năm 1991, khi vẫn đang là một giáo viên phụ trách phòng thí nghiệm vật lý, Trường chuyên Phan Bội Châu (tỉnh Nghệ An), trong chuyến về thăm quê ở xã Quỳnh Lập, khi ra vùng biển Bãi Chùa thuộc làng Đông Hồi rất đỗi hoang sơ liền với bãi cát đi lên Rú Xước, ông đau xót khi chứng kiến cả một vùng đất trống đồi núi trọc chỉ lơ thơ cây phi lao, bạch đàn, cây bản địa tái sinh và lau lách.
Ông Lê Duy Nguyên bên gốc cây nhiều năm tuổi.
Ông Lê Duy Nguyên bên gốc cây nhiều năm tuổi.
Sao không trồng phi lao, bạch đàn ở đây, vừa trồng rừng vừa bán được cây, lợi đôi bề? Ý nghĩ đó đã thôi thúc ông đến Sở Lâm nghiệp tỉnh Nghệ An rồi Hạt Kiểm lâm Quỳnh Lưu tìm hiểu cách trồng rừng và được đồng tình giúp đỡ. Tuy nhiên, khi ông bàn bạc với gia đình về ý tưởng nghỉ hưu non về trồng rừng liền bị phản đối kịch liệt. Vợ ông bảo, mình đang là công chức nhà nước, đang có vợ con êm ấm ở thành phố Vinh, cớ chi cứ nằng nặc đòi về nơi hẻo lánh sinh sống, thật là “đồ hâm, dở hơi...”. Ông ra sức thuyết phục rồi cuối cùng cũng được gia đình chấp thuận. Năm 1993, ông làm đơn nhận 168ha trong vòng 50 năm nhưng Hạt kiểm lâm vận động nhận ông cho đủ 1.000ha vì đất trống, đồi trọc đang còn nhiều. Vợ chồng ông đã dốc hết số vốn liếng tích cóp được từ lâu nay bao gồm năm lượng vàng và 250 triệu đồng cùng số tiền bán mảnh vườn của ông nội để lại đầu tư cho sự nghiệp trồng rừng.
Cuối năm 1993, lứa cây phi lao đầu tiên được ông Nguyên trồng phủ kín 10ha dọc bãi biển. Để phủ hết 1.000ha đất trống đòi o trọc, ông đã tìm cách huy động người dân, chủ yếu là bà con anh em gần đó cùng tham gia doanh nghiệp với mình, với phương thức “doanh nghiệp trả gạo mỗi công lao động, bảo đảm đủ ăn trong ngày; liên tục như vậy cho đến khi thu hoạch. Chủ doanh nghiệp hưởng 20% giá trị sản phẩm rừng, người lao động hưởng 80%”. Phương thức đó đã thu hút được 60 lao động là người dân làng Đông Hồi tham gia. Mỗi ngày ông cùng nhân dân gánh hàng vạn cây giống, hàng trăm thùng nước ì ạch leo lên từng quả đồi trọc để trồng và tưới cho cây. Giữa năm 1994, ông quyết định tăng 0,5kg gạo/người/ngày công và sau đó tăng lên 2-3kg/người/ngày công. Năm 2000 khi đã trồng được 300ha rừng bạch đàn, keo và 267ha rừng thông, phi lao thì ông bỏ phương thức này, chuyển sang trả công cho mỗi lao động 25 nghìn đến 28 nghìn đồng/ngày. Khi rừng bén rễ, xanh tốt thành rừng thì đủ loại chim muông về trú ngụ.
Ông Lê Duy Nguyên (hàng sau cùng, thứ ba bên phải sang) ngồi giải lao cùng công nhân trong rừng.
Ông Lê Duy Nguyên (hàng sau cùng, thứ ba bên phải sang) ngồi giải lao cùng công nhân trong rừng.
Năm 2004 rừng đã cho thu hoạch lứa đầu, được 1,5 tỷ đồng. Ông tính toán, cứ theo kiểu thu hoạch “cuốn chiếu” thì mười năm nữa riêng vùng rừng thông sẽ cho 1,2 tỷ đồng tiền nhựa/năm trong chu kỳ 50 năm. 300ha bạch đàn, keo có giá trị 9 tỷ đồng/năm trong thời gian tái sinh tám năm. Không dừng lại ở đó, ông chuyển sang ý tưởng trồng cây lim. Theo ông, sở dĩ người ta ít trồng lim là do gần 100 năm sau mới cho thu hoạch lâu quá. Nhưng với ông, rừng chia làm hai khu vực là rừng sản xuất để trồng cây ngắn ngày như keo, thông, cây bản địa còn trồng lim dài ngày trở thành rừng bảo tồn truyền thống do chu kỳ phát triển dài nên tính chất bảo vệ môi trường của rừng lim càng bền vững. Hiện, trên rừng ông Nguyên đã trồng được khoảng 1 nghìn cây lim phát triển tốt.
Khi rừng đã được phủ xanh, có chút vốn liếng, bằng cách lấy ngắn nuôi dài, ông đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông dài 3km để đi kiểm tra, bảo vệ rừng. Đường còn là băng cản lửa, ứng phó với hỏa hoạn. Cùng với mở đường là ngăn đập xây hồ chứa nước để giữ độ ẩm cho rừng, để có nước phòng cháy chữa cháy rừng. Hiện trong khu rừng ông Nguyên có 5 hồ chứa, mỗi hồ trữ lượng khoảng 500m3 nước.
Với ông, rừng chia làm hai khu vực là rừng sản xuất để trồng cây ngắn ngày như keo, thông, cây bản địa còn trồng lim dài ngày trở thành rừng bảo tồn truyền thống do chu kỳ phát triển dài nên tính chất bảo vệ môi trường của rừng lim càng bền vững.
Không chỉ trồng rừng, năm 1996 khi hươu sao mất giá, người ta đưa vào các nhà hàng xẻ thịt. Thấy xót xa, ông đi vay tiền bạn bè, người thân mua hơn 60 con cùng với 30kg rùa thả vào rừng. Sau này ông còn mua thả thêm một số cá thể động vật hoang dã khác như khỉ, chồn, nai, tắc kè... Bây giờ trong khu rừng đã phát triển nhiều cá thể khác. Với một tình yêu mãnh liệt, lúc sinh thời cho đến lúc đột ngột qua đời, ngày nào ông cũng lên cánh rừng của mình bè bạn với cây cối, muông thú.
Bây giờ về vùng Rú Xước, Đông Hồi, chúng ta gặp một cánh rừng đã thực sự hồi sinh trở thành đại ngàn nơi của biển. Sau khi ông Nguyên mất, con trai ông là Lê Duy Khánh đã tiếp nối sự nghiệp của người cha về giấc mơ cánh rừng nguyên sinh, với ý tưởng mới về xây dựng rừng thành khu vườn đa dạng sinh học…
Do tuổi cao sức yếu, Anh hùng Lao động Nguyễn Ngọc Lài từ trần vào ngày 22/12/2020, hưởng thọ 83 tuổi; Chủ doanh nghiệp trồng rừng Lê Duy Nguyên, từng là đại biểu Quốc hội khóa X. Ông mất năm 2016 do bạo bệnh
Giấc mơ của người canh rừng
Ngược lên miền núi cao qua Quốc lộ 7A ai cũng ngỡ ngàng khi đi trên con đường xuyên qua một cánh rừng săng lẻ nguyên sinh bạt ngàn, được ví như một "cỗ máy điều hòa” khổng lồ, tạo ra một vùng thiên nhiên hết sức trong lành. Cánh rừng này nằm ở địa phận xã bản Quang Thịnh, xã Tam Đình, huyện Tương Dương(cũ). Có lẽ đây là cánh rừng độc nhất vô nhị được gìn giữ ở miền tây xứ Nghệ tồn tại bao đời nay.
Là một cán bộ lão thành , từng giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Tương Dương, Phó Ban Dân tộc tỉnh Nghệ An cho đến khi nghỉ hưu, ông Vi Chính Nghĩa, quê bản Quang Thịnh, xã Tam Đình, huyện Tương Dương (cũ), được mọi người ví như một “huyền thoại” giữ rừng. Từ năm 1964, Lâm trường Tương Dương có tờ trình xin UBND tỉnh Nghệ An khai thác rừng săng lẻ. Lúc này ông Vi Chính Nghĩa đang giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Tương Dương đã viết đơn xin giữ lại cánh rừng và được tỉnh Nghệ An đồng ý. Một thời gian sau, ông Nghĩa được tỉnh điều chuyển về làm Phó Ban Dân tộc tỉnh Nghệ An.
Cánh rừng Săng Lẻ hôm nay trở thành điểm dừng chân trên Quốc lộ 7.
Cánh rừng Săng Lẻ hôm nay trở thành điểm dừng chân trên Quốc lộ 7.
Ngày đó, cánh rừng săng lẻ hơn 70ha ngày đêm đối mặt với nạn trộm chặt phá lấy gỗ. Năm 1988, ông Nghĩa về hưu, trước nguy cơ bị xâm hại, ông Nghĩa xin Hạt kiểm lâm huyện được giữ rừng săng lẻ. Ngày đó, người ta thấy ông thắt bao dao sau lưng vào rừng dựng lán ngày đêm đi tuần tra khắp rừng săng lẻ và nhiều lần chạm trán “lâm tặc”. Tuy một mình nhưng ông vẫn không nao núng đứng ra ngăn cản rồi thuyết phục họ không chặt phá rừng.
Cùng với đó, năm 1989, bản Quang Thịnh còn văn bản hóa hương ước với những quy định, những điều cấm để bảo vệ rừng: “Người Quang Thịnh không được chặt hạ săng lẻ với bất cứ lý do nào, gia súc cũng không được chăn thả trong rừng săng lẻ”... Vừa canh giữ nghiêm ngặt, vừa làm công tác “dân vận”, cùng với uy tín của một cán bộ lão thành, ông đã mời được lực lượng công an và kiểm lâm tham gia truy quét lâm tặc trong cả rừng săng lẻ. Từ đây nhân dân sở tại và khu vực lân cận đã dần dần nhận ra tầm quan trọng của rừng. Từ 70ha ban đầu, đến nay diện tích rừng săng lẻ đã mở ra đến hơn 200ha.
Ngày 10/1/2014, UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt chuyển đổi “Rừng đặc dụng săng lẻ huyện Tương Dương” từ rừng sản xuất sang rừng đặc dụng. Trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt rộng 53,85ha, phân khu phục hồi sinh thái rộng 141,82ha và vùng đệm là 45,93ha.
Dù nay ông Vi Chính Nghĩa đã về với “mường Then”, nhưng tinh thần giữ rừng mang tên ông vẫn như ngọn đuốc soi sáng. Nhiều năm qua, đội giữ rừng đặc dụng săng lẻ huyện Tương Dương đã tăng lên 11 thành viên, đại diện cho 11 hộ của bản Quang Thịnh. Thay ông Vi Chính Nghĩa bây giờ là người cháu họ Vi Dương Cảnh, trực tiếp canh giữ rừng săng lẻ. Nơi đây giờ đã trở thành điểm dừng chân du lịch sinh thái hấp dẫn thu hút du khách. 11 hộ tham gia giữ rừng được cấp một khoản kinh phí 90 triệu đồng/năm. Dù số tiền dịch vụ môi trường rừng chi trả còn khiêm tốn nhưng đó cũng là động lực để “Rừng đặc dụng săng lẻ huyện Tương Dương” có được diện mạo như ngày nay.
Khi kết thúc bài viết này, điều rất trùng hợp ở những “huyền thoại giữ rừng” mà chúng tôi kể trên là khi trở thành người thiên cổ, ước nguyện đều được tiếp nối trong cánh rừng mà họ đã từng ngày đêm trăn trở, gây dựng bằng tâm huyết và tình yêu mãnh liệt nhằm gìn giữ môi trường xanh cho thế hệ mai sau!
Cánh rừng Săng Lẻ hôm nay trở thành điểm dừng chân trên Quốc lộ 7.
Cánh rừng Săng Lẻ hôm nay trở thành điểm dừng chân trên Quốc lộ 7.
Rừng Săng Lẻ mùa thay lá.
Rừng Săng Lẻ mùa thay lá.
Ngày xuất bản: 21/12/2025
Tổ chức thực hiện: Ngọc Thanh - Nam Đông
Nội dung: Hồng Minh - Phượng Châu Thư - Minh Tuấn
Trình bày: Ngô Hương
