CHUYỆN GIỮ RỪNG Ở BẮC TRƯỜNG SƠN
HƯƠNG ƯỚC GIỮ RỪNG
giữa đại ngàn miền tây Nghệ An
Vùng sinh thái bắc Trường Sơn được đánh giá là trung tâm đa dạng sinh học bậc nhất của Việt Nam, với những cánh rừng già, nguyên sinh, cổ thụ và nhiều loài động vật quý hiếm được bảo tồn nghiêm ngặt. Vượt qua những khó khăn thường nhật của đời sống xã hội, người dân nơi đây đã dần giác ngộ, không vào rừng khai thác lâm sản và săn bắn trái phép và đã chủ động tham gia bám rừng, giữ đại ngàn luôn ngát xanh để hưởng lợi từ đại ngàn.
Giữa trùng điệp đại ngàn ở miền tây xứ Nghệ, nơi những cánh rừng vẫn vươn xanh không nhờ hàng rào thép hay biển cấm, mà nhờ vào một luật bất thành văn “hương ước giữ rừng”. Đó là những “lệ bản” thiêng liêng được cộng đồng dân bản nghiêm khắc thực hiện để giữ rừng như máu thịt của mình.
Không có văn bản hành chính nào được treo trên trụ sở, nhưng mỗi người dân đều thuộc lòng những điều cấm, những điều phải làm như một thứ “luật lệ rừng” được trao truyền qua bao thế hệ.
Bức “thành đồng” giữ rừng Khe Ngậu
Dòng Khe Ngậu uốn lượn mềm mại như một dải lụa ngọc ngà ôm lấy chân núi Pu Póm giữa ngút ngàn đại ngàn miền tây Nghệ An. Bao đời nay, con suối ấy không chỉ là nguồn sống mà còn là chứng nhân thầm lặng cho hành trình thức tỉnh của người dân bản Khe Ngậu (xã Tương Dương).
Câu chuyện bắt đầu từ mùa lũ năm 1967, cơn cuồng nộ của thiên nhiên đã cuốn trôi gần như cả bản, khiến 12 người mãi mãi nằm lại trong ký ức đau thương của núi rừng. “Ngày ấy, chúng tôi chưa hiểu hết giá trị của rừng. Cứ thấy cây là chặt để có đất làm nương, làm rẫy. Đến khi rừng mất, lũ về, cả bản trôi theo dòng dữ thì bắt đầu mới biết giữ rừng”, ông Lương Văn Thái, người cao niên, nay là Bí thư Chi bộ bản kể lại, ánh mắt vẫn vương nét trầm tư.
Từ nỗi đau mất mát, người Khe Ngậu bắt đầu thức tỉnh. Một lời thề được người dân lập ra để quyết tâm khôi phục và giữ lại những cánh rừng.
Từ nỗi đau mất mát, người Khe Ngậu bắt đầu thức tỉnh, một lời thề được người dân lập ra để quyết tâm khôi phục và giữ lại những cánh rừng. Mặc dù rừng được bảo vệ, được trao truyền bằng miệng qua nhiều năm tuy nhiên giữ rừng chủ yếu vẫn bằng ý thức của người dân mà chưa có một quy định, một văn bản nào cụ thể. Để bảo vệ những cánh rừng, những cây gỗ quý, năm 2000, Chi bộ bản Khe Ngậu đã họp, bàn bạc thống nhất đưa ra một hương ước giữ rừng được người dân trong bản đồng tình, từ đó việc bảo vệ rừng với thực sự quyết liệt.
Ông Lương Văn Thái cho biết: Nếu ở nơi khác, người ta giữ rừng bằng những tấm biển cấm, bằng lực lượng kiểm lâm tuần tra, thì ở Khe Ngậu, cây được cộng đồng đánh số thứ tự. Mỗi cây là một “thành viên” được cả cộng đồng nhận diện, bảo vệ.
Rừng dọc dòng Khe Ngậu được chia thành từng cụm để thuận tiện hơn trong việc bảo vệ. Như đoạn Khe Có Pạo - nơi có 15 cây cổ thụ quý, được phân về từng tổ liên gia để quản lý và chịu trách nhiệm bảo vệ. Hiện bản có 4 tổ liên gia, với 159 hộ tham gia cam kết bảo vệ rừng. Người dân thuộc từng tổ có trách nhiệm đi tuần mỗi tháng một lần, kiểm đếm số lượng cây trong khu vực mình quản lý. Nếu có dấu hiệu cây bị xâm hại hay cây bị mục ruỗng, tổ liên gia sẽ thông báo với bản và bản sẽ phối hợp với Hạt kiểm lâm để có phương án xử lý chứ tuyệt đối không được tự ý khai thác, ông Thái cho biết thêm.
Những cây to được người dân trong bản đánh dấu, đánh số để dễ quản lý.
Những cây to được người dân trong bản đánh dấu, đánh số để dễ quản lý.
Anh Lương Văn Toàn, thành viên Tổ liên gia tổ 4 bản Khe Ngậu cho biết: Kỷ cương giữ rừng không dừng lại ở việc kiểm đếm, đánh số cây. Bản còn lập quy định rõ ràng: Ai chặt phá rừng trái phép sẽ bị phạt từ 1-2 triệu đồng, viết cam kết không tái phạm. Nếu vi phạm nhiều lần sẽ bị đưa ra họp bản, thậm chí bị trục xuất khỏi cộng đồng. Cây cũng như người, đã sống trong bản thì phải có người chăm sóc và có luật để bảo vệ. Như năm 2024, bản Khe Ngậu có 3 hộ dân tự ý phát rừng làm rẫy mà không xin ý kiến của bản nên đã lập biên bản và xử lý theo hương ước của bản.
Đây là bức tường mềm nhưng có sức răn đe mạnh, giúp người dân nhận thức sâu sắc được phá rừng không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn trái lại với hương ước của bản làn
Ông Nguyễn Hải Âu, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Tương Dương chia sẻ: Thời gian qua, công tác giữ rừng trên địa bàn đạt nhiều kết quả tích cực với nhiều mô hình hay, trong đó hương ước giữ rừng ở bản Khe Ngậu được đánh giá cao, có cách làm sáng tạo khi đánh số định danh vào cây gỗ quý để cộng đồng dễ quản lý. Đây là bức tường mềm nhưng có sức răn đe mạnh, giúp người dân nhận thức sâu sắc được rằng phá rừng không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn trái lại với hương ước của bản làng.
Cây cũng như người, đã sống trong bản thì phải có người chăm sóc và có luật để bảo vệ.
Báu vật Na Hang
Cách dòng Khe Ngậu hơn 120km, giữa đại ngàn miền Tây xứ Nghệ, nơi mây trời như chạm tay người, có một bản nhỏ tên gọi Na Hang (xã Nhôn Mai). Những cánh rừng đinh hương rộng lớn với hàng trăm gốc cây to nhỏ ở nơi đây đã được dân bản bảo vệ và chăm sóc trong hơn 30 năm qua. Những cánh rừng này không chỉ là bóng mát che chở bao đời, mà còn là biểu tượng của ý chí, niềm tin và một lời hẹn thiêng liêng của dân bản gửi gắm.
Bản nhỏ của xã biên giới Nhôn Mai, nằm cheo leo giữa lưng trời. Có thời, để đến được nơi này, từ trung tâm huyện người dân phải đi bộ cả tuần lễ qua những con đường rừng rậm rạp, hoặc lênh đênh trên chiếc thuyền đuôi én vượt thác ghềnh sông Nậm Nơn. Đường không có, điện không, sóng điện thoại chỉ là điều xa xỉ, mỗi chuyến đi là một cuộc hành trình hun hút về phía hoang sơ.
Nhưng rồi cuối năm 2015, Quốc lộ 16, con đường “mở xuyên núi” đã mang theo ánh sáng văn minh. Từ đó, Na Hang đổi khác, xe ô tô lên tận bản, hàng hóa lưu thông, nông sản được thương lái thu mua tận nơi, điện lưới sáng bừng mái nhà sàn.
Phóng viên Báo Nhân Dân di chuyển vào bản Na Hang.
Phóng viên Báo Nhân Dân di chuyển vào bản Na Hang.
Tuy nhiên, con đường quốc lộ cũng mở đường cho những tay “săn gỗ” trộm nhòm ngó những cánh rừng đinh hương quý giá. Để giữ gìn, bảo vệ “báu vật” này của bản, hàng chục năm qua, ban quản lý, người dân bản Na Hang đã nhắc nhở nhau bảo vệ toàn vẹn diện tích rừng.
Ngoài hương ước giữ rừng được truyền miệng qua các thế hệ; thì nay để phát huy vai trò tự quản của cộng đồng dân cư, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ rừng gắn với thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân bản Na Hang đã cùng nhau lập ra Hương ước bằng văn bản, với sự góp ý của chính quyền và ngành chức năng, trong đó có những điều khoản cụ thể về bảo vệ và phát triển rừng.
Chúng tôi theo chân già làng Kha Văn Tuấn (sinh năm 1961) đi dọc con đường đất đầy sỏi, vòng vèo qua những triền đồi, để đến với cánh rừng đinh hương bạt ngàn phía sau bản. Gió đại ngàn thơm mùi vỏ gỗ, hương lá dìu dịu như hương trầm cũ. Mỗi gốc cây như một linh hồn đang ngủ giữa lòng đất mẹ, lặng lẽ vươn cao, xanh mãi.
Ông Kha Văn Tuấn ( áo trắng) - Người uy tín ở bản Na Hang bên những gốc đinh hương hàng chục năm tuổi.
Ông Kha Văn Tuấn ( áo trắng) - Người uy tín ở bản Na Hang bên những gốc đinh hương hàng chục năm tuổi.
Muốn đi hết khu rừng này, phải mất cả ngày. Mà chúng tôi không dám tự tiện vào rừng một mình đâu, phải xin phép tổ bảo vệ rừng, có kiểm tra, có ghi sổ, để ai cũng thấy rừng là tài sản chung, không phải của riêng ai.
“Ngày xưa, cây chỉ to bằng bắp tay”, già Tuấn chỉ tay vào một cây đinh hương cao vút, tán lá xòe rộng như chiếc lọng xanh khổng lồ. “Giờ phải mấy người ôm không xuể. Muốn đi hết khu rừng này, phải mất cả ngày. Mà chúng tôi không dám tự tiện vào rừng một mình đâu, phải xin phép tổ bảo vệ rừng, có kiểm tra, có ghi sổ, để ai cũng thấy rừng là tài sản chung, không phải của riêng ai”, già làng Tuấn kể thêm.
Kha Văn Tuấn là một trong ba đảng viên đầu tiên của bản, là người đặt nền móng đầu tiên cho công cuộc giữ rừng của Na Hang. Trước đây, bản Na Hang vốn là vùng sản xuất của hai bản Huồi Xá và Huồi Tố, mới đầu chỉ có vài hộ dân tộc Thái đến làm nhà tạm để trồng trọt, chăn nuôi, chủ yếu là trồng lúa nương. Khi chính thức lập bản mới Na Hang năm 1994 mới chỉ ỉ có 15 hộ, đến nay đã tăng lên gần 30 hộ, hơn 137 khẩu.
Kha Văn Tuấn là một trong ba đảng viên đầu tiên của bản, là người đặt nền móng đầu tiên cho công cuộc giữ rừng của Na Hang.
Khu rừng đinh hương lúc bấy giờ mới chỉ là những cây tái sinh hoặc cây nhỏ mọc tự nhiên. Già Kha Văn Tuấn lúc đó với vai trò là đảng viên, Trưởng bản đã cùng với người có uy tín trong làng tuyên truyền cho bà con biết tầm quan trọng của rừng và rừng là tài sản chung ai cũng phải có trách nhiệm gìn giữ khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ, nhất là rừng đinh hương.
Ông Kha Văn Tuấn tự hào về rừng đinh hương của bản.
Ông Kha Văn Tuấn tự hào về rừng đinh hương của bản.
Nghe theo cán bộ, bà con dân bản đã có ý thức chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, không ai chặt phá nên hơn 30 năm qua, rừng đinh hương đã phát triển thành rừng rộng lớn với hàng trăm gốc lớn, nhỏ.
Bí thư Chi bộ bản Na Hang Kha Văn Ót, giờ là người tiếp nối tâm huyết của thế hệ đi trước. Anh cho biết, hiện tại, bản Na Hang đang bảo vệ và chăm sóc rừng đinh hương với diện tích 100 ha và 177,4 ha rừng sản xuất. Bản lập hai tổ bảo vệ rừng, mỗi tổ 7-9 hộ thay phiên nhau tuần tra. Mỗi tháng hai lần đi rừng, các tổ phối hợp với ban quản lý bản và lực lượng kiểm lâm đi tuần tra, ghi chép, báo cáo đầy đủ. Ai vi phạm, xử lý ngay, nếu người dân trong bản vi phạm nhiều lần sẽ bị nhắc nhở và có thể đuổi ra khỏi bản. Trường hợp nặng thì báo xã, kiểm lâm để xử theo pháp luật.
“Từ khi còn nhỏ, chúng tôi đã được nghe cha ông dặn rằng rừng là máu thịt, là ngôi nhà của linh hồn bản mường. Không được chặt phá rừng, không được bán gỗ, dù đói khổ cũng phải giữ lấy từng gốc cây. Chỉ cây nào già chết tự nhiên mới được lấy về làm nhà. Ai vi phạm, cả bản sẽ xử, nặng thì đuổi khỏi bản, nhẹ cũng phải viết cam kết, nộp phạt để răn đe”, Bí thư Chi bộ Kha Văn Ót nhớ lại.
Từ khi còn nhỏ, chúng tôi đã được nghe cha ông dặn rằng rừng là máu thịt, là ngôi nhà của linh hồn bản mường. Không được chặt phá rừng, không được bán gỗ, dù đói khổ cũng phải giữ lấy từng gốc cây.
Để dẫn chứng về tác dụng của việc giữ rừng, già làng Kha Văn Tuấn chỉ tay vào khe Huồi Hang trầm ngâm nói: Trước đây đoạn khe này cứ đến tháng 4 tháng 5 là nước cạn trơ cả sỏi đá. Tuy nhiên mấy chục năm nay khe Huồi Hang chưa bao giờ cạn nước. Nước chảy quanh năm cả bản lấy nước sử dụng thoải mái. Ngoài ra, nước khe không bao giờ cạn giúp người dân khai hoang, làm ruộng nước không còn phải lên rừng chặt cây để làm rẫy nữa.
Năm 2024, tổ cộng đồng bản Na Hang nhận được 74 triệu đồng. Khoản tiền này giúp người dân có chi phí để trang trải cuộc sống. “Gắn bó với rừng, sống cùng rừng, hưởng lợi từ rừng nên bà con dân bản Na Hang coi việc giữ rừng là giữ cho bản làng luôn bình yên, no ấm. Đây cũng là mô hình “Dân vận khéo” điển hình ở địa phương”, Đồng chí Mạc Văn Nguyên, Bí thư Đảng ủy xã Nhôn Mai chia sẻ.
Những cây đinh hương cao vút, tán lá xòe rộng như chiếc lọng xanh khổng lồ.
Những cây đinh hương cao vút, tán lá xòe rộng như chiếc lọng xanh khổng lồ.
Rừng cây đinh hương được người dân bảo vệ nghiêm ngặt.
Rừng cây đinh hương được người dân bảo vệ nghiêm ngặt.
Ông Kha Văn Tuấn bên gốc cây sấu đầu làng như minh chứng cho tinh yêu rừng của người dân nơi đây.
Ông Kha Văn Tuấn bên gốc cây sấu đầu làng như minh chứng cho tinh yêu rừng của người dân nơi đây.
Báu vật Na Hang
Rời Na Hang, ngược quốc lộ 16 từ huyện Kỳ Sơn qua Quế Phong trước đây, chúng tôi tiếp tục ngược quốc lộ 48D quanh co, uốn lượn. Sau một quãng đường di chuyển, dãy núi Pù Hốc xanh tươi với đỉnh Chóm Hén cao 485m hiện ra trước mắt. Đây là cánh rừng già có diện tích lên đến 183ha được người dân bản Hốc, xã Diên Lãm (huyện Quỳ Châu trước đây), nay là xã Hùng Chân, bảo vệ như giữ chính hơi thở của mình suốt hàng trăm năm nay.
Không bảng hiệu, không trạm gác, cũng chẳng cần hàng rào thép gai, cánh rừng vẫn bình yên bởi được gìn giữ bằng niềm tin, bằng hương ước và trách nhiệm cộng đồng. Ông Quang Văn Đồng, Bí thư bản Hốc, khẽ nói khi chỉ tay về phía đại ngàn đang đẫm trong sương sớm. “Nếu không có rừng, suối bản Hốc đã khô cạn, ruộng đồng chẳng còn mùa gặt.
Rừng cây đinh hương được người dân bảo vệ nghiêm ngặt.
Rừng cây đinh hương được người dân bảo vệ nghiêm ngặt.
Bí thư bản Hốc kể lại: Câu chuyện giữ rừng của bản Hốc bắt đầu từ hơn 300 năm trước. Khi hai dòng họ Lương và Quang đầu tiên đặt chân đến thung lũng Pù Hốc, họ không chỉ dựng nhà, khai ruộng, mà còn lập lời thề thiêng: “Phải giữ rừng như giữ ngọc của trời.” Những quy ước ban đầu chỉ là lời truyền miệng, nhưng sức nặng của chúng như gốc lim bám sâu vào lòng đất. Ai muốn làm nhà phải xin phép bản, được cộng đồng chấp thuận mới được vào rừng lấy gỗ. Kẻ nào lén chặt cây bị phạt bằng trâu, bằng thóc và hơn cả là bằng sự xấu hổ trước tổ tiên. Nhờ thế, trong khi nhiều vùng khác của Châu Hoàn, Châu Phong, Diên Lãm từng bị lâm tặc càn quét, thì rừng bản Hốc vẫn đứng vững, xanh biếc giữa những mùa biến động.
Những năm 2005, khi rừng bị đe dọa bởi sự xâm lấn ngày càng tinh vi, người dân bản Hốc đã quyết định viết lại lời thề của tổ tiên bằng giấy trắng mực đen - bản hương ước giữ rừng đầu tiên. Trong đó, từng điều khoản được ghi cẩn thận: Chỉ có người dân bản Hốc mới được phép vào cánh rừng này để chặt gỗ và cũng chỉ được chặt để dựng nhà, không được dùng gỗ trao đổi hay mua bán. Trước khi dựng nhà, gia chủ phải làm đơn gửi Ban quản lý bản xem xét, tùy vào diện tích của nhà để cho phép chặt khoảng bao nhiêu cây.
Mọi động vật trong rừng đều bị cấm săn bắt. Người dân chỉ được phép khai thác những lâm sản phụ như hái măng, nhặt củi, cây dược liệu dưới tán rừng... Bản hương ước có chữ ký của từng hộ dân như một khế ước thiêng liêng giữa con người và thiên nhiên.
Không bảng hiệu, không trạm gác, cũng chẳng cần hàng rào thép gai, cánh rừng vẫn bình yên bởi được giữ bằng niềm tin, bằng hương ước và trách nhiệm cộng đồng.
Nhờ được bảo vệ, 183ha rừng nguyên sinh Pù Hốc ngày càng xanh tươi, ít bị tác động bởi lòng tham của con người. Rừng có những gốc gỗ quý như sến, táu, de, thân to ba, bốn người ôm không xuể. Đây cũng là nơi cư ngụ của nhiều loại chim, thú như chồn, mang, khỉ, lợn rừng...
Ngoài ra, 60 hộ trong bản được chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm có trách nhiệm tuần tra, kiểm soát sát sao rừng trong một tháng. Nếu nhóm nào không làm nhiệm vụ, để xảy ra mất gỗ sẽ phải chịu phạt.
Nhờ được bảo vệ, 183ha rừng nguyên sinh Pù Hốc ngày càng xanh tươi, ít bị tác động bởi lòng tham của con người.
Mỗi tháng hai lần, với sự hỗ trợ của cán bộ xã, kiểm lâm, nhóm 10 người dân sẽ đi tuần tra giám sát từ đầu đến cuối rừng. Những chuyến đi thường kéo dài 2 - 3 ngày. Người dân mang theo cơm, nước, vật dụng sinh hoạt để ngủ lại trong rừng, nếu phát hiện bất thường thì chụp hình và quay video thực trạng mang về báo cáo lãnh đạo địa phương và họp bàn phương án xử lý, Bí thư Chi bộ bản Hốc cho biết thêm.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hùng Chân chia sẻ: "Không nhiều địa phương, bản làng còn giữ được những cánh rừng nguyên sinh, giàu giá trị như Pù Hốc. Chúng tôi rất tự hào với những gì bà con nơi đây làm được. Chính quyền sẽ tiếp tục đồng hành và tuyên truyền, giúp đỡ để người dân bản Hốc tiếp tục gìn giữ rừng ngày càng xanh tươi cho thế hệ mai sau".
"Năm 2023, thực hiện Tiểu dự án 1 - dự án 3 “phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp bền vững gắn với nâng cao thu nhập cho người dân”, đã chi trả cho người dân gần 12 tỷ đồng, năm 2024 hơn 10,4 tỷ đồng; Chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng năm 2024 hơn 4 tỷ đồng, chi trả tiền giảm phát thải khí nhà kính năm 2024 hơn 12,5 tỷ đồng. Người dân Diên Lãm giờ đây sống khỏe nhờ bảo vệ rừng", ông Nguyễn Hữu Duy, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Quỳ Châu cho biết.
Các tổ tuần tra rừng cộng đồng và cơ quan chức năng thường xuyên phối hợp tuần tra rừng.
Các tổ tuần tra rừng cộng đồng và cơ quan chức năng thường xuyên phối hợp tuần tra rừng.
Chính quyền sẽ tiếp tục đồng hành và tuyên truyền, giúp đỡ để người dân bản Hốc tiếp tục gìn giữ rừng ngày càng xanh tươi cho thế hệ mai sau
Cánh rừng Pù Hốc được bảo vệ xanh tốt.
Cánh rừng Pù Hốc được bảo vệ xanh tốt.
Các tổ tuần tra rừng cộng đồng và cơ quan chức năng thường xuyên phối hợp tuần tra rừng.
Các tổ tuần tra rừng cộng đồng và cơ quan chức năng thường xuyên phối hợp tuần tra rừng.
Từ Khe Ngậu, Na Hang, bản Hốc hay nhiều bản làng giữ trập trùng núi rừng miền tây Nghệ An, hương ước bản làng giữ rừng đã trở thành sợi dây vô hình gắn kết con người với thiên nhiên. Nhờ có hương ước, mỗi tấc rừng không chỉ được gìn giữ bằng pháp luật, mà bằng chính tình yêu và niềm tin của dân bản. Ở đó, rừng không còn là tài nguyên để khai thác, mà là di sản để bảo tồn, là nguồn nước, khí lành, là mái nhà che chở bản làng qua bao mùa mưa nắng. Và khi hương ước vẫn được trao truyền bằng niềm tin, tình yêu thì những cánh rừng ấy ấy vẫn sẽ mai xanh tươi giữa đại ngàn xứ Nghệ.
Ngày xuất bản: 12/2025
Tổ chức thực hiện: Ngọc Thanh - Nam Đông
Nội dung: Phượng Châu Thư - Minh Tuấn
Trình bày: Ngọc Diệp
