Vẫn còn mãi những tiếng thơ ngân vọng

Nhà thơ là điều gì khác biệt. Với Việt Nam, càng khác biệt hơn, vì dân tộc ta là một dân tộc thơ ca, một dân tộc cần có thơ ca để bay vượt lên những cuộc chiến và thiên tai dữ dằn, tàn khốc; vượt lên vị thế của mình để có chỗ tự đắc, cao sang.

Mất một nhà thơ lớn như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận..., từng lúc, đã thấy cả khoảng trời trống vắng. Mất một lúc bốn nhà thơ kỳ hoa dị thảo, thì cả khu vườn  ngơ ngác gió mây.

Tôi nhớ năm 2003, được nhà thơ, nhạc sĩ Trần Hùng, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Cao Bằng dẫn đến thăm nhà thơ Bàn Tài Ðoàn ở thị trấn Nguyên Bình. Ðó là lần gặp đầu tiên và cũng là cuối cùng với một nhà thơ người Dao đặc sắc, có bài Muối Cụ Hồ in trong sách giáo khoa. Ông kể cho chúng tôi nghe về bản thân phải sinh ra trong hang đá lạnh, về bộ tộc Dao phải nhiều đời du canh, du cư; cho đến khi gặp Bác Hồ, gặp đồng chí Văn (Ðại tướng Võ Nguyên Giáp), được giác ngộ cách mạng, được khuyến khích viết chữ Nôm Dao thành những bài vè để vận động đồng bào theo Việt Minh chống thực dân Pháp. Rồi theo con đường lớn, ông làm thơ đấu tranh thống nhất, xây dựng CNXH. Nhà thơ trở thành già bản của người Dao. Ông kể:

Du Ðang là người ông của tôi
Ông sinh được hai gái, hai trai
Người sinh ra người, chẳng sinh ruộng
Cuốc rẫy đất gầy, lại đi thôi.

Nhưng rồi, có Ðảng, có Bác Hồ, người Dao theo thơ ông, biết:

Ngày nay phải bàn ở yên chỗ
Dựng nhà lợp ngói ở bền lâu
Làm cho làng xóm đông như phố
Nhà nhà điện sáng thay đèn dầu.

Theo cách mạng, ông biết chữ, có 16 tập thơ, một số tập bút ký và tiểu luận, được tặng nhiều huân chương và giải thưởng lớn. Trong "Báo tin mừng cho mẹ", ông viết "Tuổi cao, ý nghĩ thêm sung sức; Con chẳng tự tin, chỉ tự hào".

Ông rất đáng tự hào về những gì mình đã làm được. Ðó là một nhà thơ đã có tác động tích cực đến cả một dân tộc đã theo con đường lớn của cách mạng.

NHÀ thơ Vũ Cao sinh năm 1922 tại làng Hào Kiệt, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh, một làng sinh ra rất nhiều danh nhân, hào kiệt. Vũ Cao (Vũ Hữu Chỉnh) là anh ruột của hai nhà văn Vũ Ngọc Bình và Vũ Tú Nam. Nhắc đến Vũ Cao là nhắc đến bài thơ Núi Ðôi, một áng thơ trữ tình lãng mạn cách mạng đặc sắc bậc nhất viết về kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông từng là Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội (1967 - 1986). Trong đời thường, đó là một người giàu đức tin, tình yêu thương, dung dị nhưng cũng rất hóm hỉnh. Tôi đã thấy, đã học rất nhiều chất anh hùng, siêu thoát của ông trong đời và trong thơ:

Ði ta đi, ta đứng ngang trời
Mây dưới chân ta, ta vượt mây rồi!
Núi đã xuống với đồi nương làm bạn
Không thấy nữa những vòm tre xóm bản
Chỉ còn ta và gió với mây bay...

                             (Ðèo trúc)

Khi nhà thơ tiền bối tâm sự về văn chương, lớp trẻ chúng tôi coi như lời dạy không quên để mà thủy chung, kiên định: "Người viết phải có trách nhiệm với câu chữ của mình và cần nhất là sự giản dị, trong sáng. Người viết cần có phong cách riêng, tính cách riêng nhưng không tách ra khỏi cuộc sống nhân dân". Kết thúc bài Núi Ðôi, ông viết:

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

Ðó là những câu thơ xứng đáng khắc bia mộ của ông, khắc ghi trong tâm khảm người đời.

Trong số những nhà thơ kháng chiến hàng đầu (chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) có tên Chính Hữu. Ông tên thật là Trần Ðình Ðắc, sinh ngày 15-12-1926, quê huyện Cam Lộc, Hà Tĩnh; một vùng quê cách mạng và hiếu học. Là một thanh niên trí thức, ông sớm theo cách mạng, gia nhập quân đội, cán bộ cấp sư đoàn, Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn (TCCT) từng là Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khoá 3. Ðiều đó chứng tỏ uy tín văn học của ông. Cái độc đáo của ông là cả đời chỉ in một tập thơ, nhưng bài thơ nào cũng neo lại lòng người. Ðó là sự thận ngôn, sự chậm rãi minh triết. Ông nhuần nhị giữa cái tôicái ta, nhuần nhị giữa "tinh" (tinh xảo) và "phác" (mộc mạc). Ông trân trọng tất cả mọi người, dìu đỡ mọi câu thơ của đồng nghiệp nhưng hết sức khắt khe với mình. Ông coi ông chỉ là một người làm thơ nghiệp dư, và quyền tự do của ông là tự do bỏ những cái gì mình không vừa ý. Viết về người chiến sĩ vệ quốc, chiến sĩ giải phóng, ngoài Tố Hữu, Hồng Nguyên, Lê Anh Xuân, không thể không nhắc đến Chính Hữu. Chỉ có bốn chữ "đầu súng trăng treo" trong bài Ðồng chí (1948) đã đủ neo lại với muôn đời hình ảnh thi vị, lãng mạn của người lính Cụ Hồ, của cả dân tộc ta. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT.

Giáo sư Lê Ðình Kỵ, nguyên đại đội trưởng đặc công thời kháng chiến chống thực dân Pháp, là thầy giáo dạy lý luận văn học của chúng tôi ở Khoa Văn, Ðại học Tổng hợp Hà Nội.

Tôi nhớ nhất là chuyên luận "Truyện Kiều và Chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du". Ông nói khó khăn nhưng cầm sách đọc thì khiến chúng tôi mê ly. Ðiều sở đắc khác là ông giảng về thơ chống Mỹ. Người cao minh chỉ nói một câu là thành một khái quát. Ông nói: Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có hai "trường phái" thơ. "Trường phái" Chế Lan Viên và "trường phái" Phạm Tiến Duật. "Trường phái" thứ nhất, tìm cái đẹp từ bên trong sự ngưng đọng của lý trí. "Trường phái" thứ hai chủ yếu tìm cái đẹp từ bên trong các diễn biến sôi động của cuộc sống.

Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 tại thị xã Phú Thọ, tốt nghiệp ÐHSP Hà Nội, bộ đội Trường Sơn, giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 1969 - 1970. Ngoài Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây, Lửa đèn, Gửi em cô Thanh niên xung phong bạn đọc trong nước không mấy ai không thuộc; bạn bè văn chương quốc tế thường nhắc đến câu thơ "Thế đấy, giữa chiến trường; Nghe tiếng bom rất nhỏ" trong bài Tiếng bom ở Seng Phan của anh. Một cái gì rất cụ thể và rất khái quát, rất con người và rất Việt Nam đánh xâm lược Mỹ.

Trong những người làm thơ trẻ, gặp anh dù chỉ một lần là đủ để thành anh em, thành người thân thiết. Anh là nhà thơ lớn, tự biết lớn giữa nhân dân mình. Chủ yếu anh là người bình dị, là người đem cho. Có đôi điều nào đó ở anh, hứa hẹn hay ấp ủ chưa thực hiện được; là vì anh muốn tốt đẹp hơn cho tất cả hoặc vì chưa có thời gian, chưa có điều kiện. Anh Phạm Tiến Duật luôn nhiệt tình với Báo Nhân Dân, đặt bài gì anh cũng nhận, cũng viết hay. Nhà nghệ sĩ lớn ấy là người rất có trách nhiệm, và đúng hẹn như một quân nhân. Những năm gần đây, anh Phạm Tiến Duật, anh Vũ Quần Phương... vẫn thường tâm huyết với báo Ðảng, vẫn mong muốn làm sao người văn nghệ sĩ trước hết là phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng; làm sao để góp phần đưa văn học trở về chính đạo. Người nghệ sĩ không cần phải quên mình, nhưng để có mình, phải biết vì người...

Nhiều lời hẹn, nhiều dự định của anh đã không còn bao giờ thực hiện được!

Vốn biết sinh hữu hạn, tử bất kỳ; vốn biết, sống chết sự thường, nhưng sao mà đau, mà xót, mà tiếc thương đến thế!

Tiếng thơ của các bác, các anh mãi ngân vang trong đời. Người ta chỉ thật sự chết khi không còn sống trong lòng người khác. Các nhà thơ sống mãi trong tâm  hồn dân tộc.

Có thể bạn quan tâm