Vai trò “tam nông” với kinh tế địa phương

Sau hơn ba năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế; nâng cao đời sống người dân ở nông thôn.

Sản xuất rau thủy canh tại trang trại Đức Tín, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh: MAI VĂN BẢO)
Sản xuất rau thủy canh tại trang trại Đức Tín, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh: MAI VĂN BẢO)

Nhằm phát huy những kết quả đạt được, khắc phục hạn chế, yếu kém, mới đây, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 219-KL/TW ngày 26/11/2025 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW. Kết luận số 219- KL/TW đặt ra 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm thúc đẩy hiện thực hóa các mục tiêu. Trong đó, tổ chức lại sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thúc đẩy liên kết chặt chẽ “6 nhà”; khuyến khích, tạo điều kiện để các hộ nông dân tham gia phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác, hội, tổ chức ngành, nghề để sản xuất hàng hóa lớn theo chuỗi; có giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế hộ, trang trại.

Ghi nhận thực tế tại nhiều địa phương, các cấp ủy, tổ chức đảng đã và đang bám sát chủ trương của Trung ương về “tam nông”, lồng ghép trực tiếp trong các nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động, cụ thể hóa bằng mô hình, giải pháp thiết thực.

Tại Thái Nguyên, xác định chè là cây trồng chủ lực của địa phương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 3/2/2025 về phát triển ngành chè Thái Nguyên giai đoạn 2025-2030, phấn đấu tổng giá trị sản phẩm đến năm 2030 đạt 25 nghìn tỷ đồng. Quán triệt chủ trương từ Trung ương và các nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cấp ủy các xã, phường chỉ đạo tiến hành nhiều giải pháp nhằm tạo chuyển biến rõ nét trong sản xuất, chế biến, kinh doanh chè; phát huy tiềm năng, lợi thế các vùng sản xuất chè; nâng cao thương hiệu, giá trị sản phẩm chè Thái Nguyên.

Xã Tân Cương được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 xã: Tân Cương, Thịnh Đức, Bình Sơn với diện tích gần 58km², dân số gần 26.000 người. Phát huy lợi thế địa phương, Đảng ủy xã sớm xây dựng chương trình hành động, chú trọng mô hình sản xuất chè hàng hóa quy mô lớn, hình thành chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu trồng, chế biến đến tiêu thụ.

Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền xã ưu tiên nguồn lực cho hoạt động phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo dựa trên nền tảng văn hóa trà và sinh thái nông thôn. Xã Đại Phúc có hơn 1.260ha chè, là cơ sở để Đảng ủy xã đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt sản lượng khoảng 31.595 tấn chè búp tươi, nâng giá trị sản phẩm trên mỗi hecta đất trồng đạt hơn 1 tỷ đồng/năm, tổng giá trị thu được từ chè khoảng gần 1.300 tỷ đồng/năm.

Theo đó, hướng ưu tiên của xã tập trung phát triển hạ tầng phục vụ du lịch; thu hút đầu tư các dự án chất lượng cao, nhất là khu vực hồ Núi Cốc; định vị chè đặc sản thành sản phẩm chủ lực thông qua chế biến sâu, tạo thương hiệu và ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất, tiêu thụ.

Kết quả triển khai các nghị quyết về phát triển công nghiệp chế biến nông sản, phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản tập trung, bền vững, ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021-2025 tại Sơn La đã cho thấy hướng đi đúng của Đảng bộ tỉnh. Từ các nghị quyết chuyên đề, cấp ủy, chính quyền tỉnh tập trung khuyến khích đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và liên kết khoa học, phát triển các khu nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp như mô hình rau, quả không dùng đất thuộc dự án Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai.

Phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu của Nghị quyết số 19-NQ/TW, tại Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16, Tỉnh ủy Sơn La đề ra nhiệm vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp; tăng cường tính đột phá trong ứng dụng khoa học-công nghệ, chuyển dịch từ chú trọng năng suất sang nâng cao chất lượng, giá trị nông sản; định hướng xây dựng tỉnh thành trung tâm chế biến sản phẩm nông nghiệp vùng Tây Bắc.

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, trong kế hoạch, Sơn La sẽ xây dựng 25 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hoàn thiện hệ thống tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, thu hút doanh nghiệp “đầu tàu” có năng lực vốn và công nghệ tham gia đầu tư. Bên cạnh đó, khuyến khích phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái gắn với du lịch tại các vùng Mộc Châu, Thuận Châu, đèo Pha Đin...

Thời gian qua, sự hài lòng của người dân trước diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc là thước đo đánh giá thành công trong việc thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, đồng thời là cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục nâng cao tinh thần, trách nhiệm, nỗ lực hoàn thành các yêu cầu đặt ra trong Kết luận số 219-KL/TW, góp phần đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng.

Có thể bạn quan tâm