Là đô thị vùng sông nước, thành phố nằm trên vùng đất lầy và thấp, có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc với gần 8.000 km chiều dài, bao phủ 16% diện tích thành phố. Theo thống kê, do ảnh hưởng thủy triều đang gây ngập úng trên diện rộng với khoảng 150 phường, xã thường bị ngập úng và dự báo con số này sẽ là 177 phường, xã vào năm 2050.
Thành phố Hồ Chí Minh đang chịu áp lực từ gia tăng dân số, các áp lực từ quá trình đô thị hóa, hoạt động sản xuất thương mại, dịch vụ, giao thông. Hiện, thành phố có 17 khu chế xuất, khu công nghiệp; có hơn 120 bệnh viện; hơn tám triệu phương tiện xe cơ giới gồm ô-tô, xe gắn máy và mỗi ngày thành phố cũng “gồng gánh” một lượng lớn chất thải rắn phát sinh…
Đánh giá của các chuyên gia cho rằng, Thành phố Hồ Chí Minh là 1 trong 10 thành phố bị đe dọa nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu. Dự báo về nguy cơ biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường dự báo đến năm 2050, mực nước biển có thể dâng khoảng 30cm và đến cuối thế kỷ 21 sẽ là 75cm. Khi đó, 204 km2 chiếm 10% diện tích của Thành phố Hồ Chí Minh bị ngập và năm 2100 sẽ có 472 km2 chiếm 23% diện tích thành phố sẽ bị ngập chìm trong nước biển.
Ðây là cảnh báo về những nguy cơ từ biến đổi khí hậu mà địa phương này phải đối mặt vào cuối thế kỷ 21. Tiến sĩ Trần Thị Bích Nga, Trường đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Trước các áp lực đang diễn ra đã mang đến nhiều thách thức cho thành phố. Đó là thành phố nằm trong danh sách 10 thành phố bị tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu.
Quá trình đô thị hóa nhanh, tăng nhiệt độ, dẫn đến nhiệt độ cao hơn trong trung tâm nội ô đô thị. Mực nước biển dâng cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt dẫn đến nguy cơ ngập lụt và nhiễm mặn tăng lên. Việc thay đổi lượng mưa dẫn đến nguy cơ ngập lụt trên diện rộng và kéo dài ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản…
Trước thực trạng này, thành phố xem việc ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Để đạt được các mục tiêu và giảm thiểu những tác động do biến đổi khí hậu gây ra, thành phố đã và đang triển khai các giải pháp trọng tâm như xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về ứng phó với bến đổi khí hậu; tăng cường quản lý tổng hợp để giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với ứng phó biến đổi khí hậu; nghiên cứu giải pháp liên kết vùng và các lĩnh vực trong triển khai hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cùng với đó, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học-công nghệ trong việc xây dựng, cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu về khí hậu, thủy văn, tài nguyên môi trường, phục vụ việc giám sát, dự báo, cảnh báo, đề xuất giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu...
Ngoài ra, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững dưới tác động của biến đổi khí hậu, thành phố xây dựng chiến lược dài hạn về ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu. Theo đó, địa phương này đã thực hiện xong quy hoạch tổng thể đô thị gắn kết các dự án phòng chống lũ lụt, triều cường, ô nhiễm môi trường. Thành phố cũng huy động các nguồn lực đầu tư vào năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính, xây dựng hệ thống giao thông công cộng, giảm ô nhiễm không khí, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên.
Theo Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra mục tiêu giảm 10% phát thải vào năm 2030 và tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, phát triển bền vững hoặc giảm phát thải 30% nếu có sự hỗ trợ của quốc tế. Đồng thời, lồng ghép các hành động ưu tiên thích ứng, giảm thiểu vào quy hoạch ngành và thành phố, tích cực thực hiện cam kết của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu, hợp tác quốc tế, kêu gọi hỗ trợ, đầu tư.
Để nâng cao hiệu quả ứng phó với biến đổi khí hậu, Tiến sĩ Trần Thị Bích Nga cho rằng: Thành phố Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh năng lực khoa học-công nghệ trong bảo vệ môi trường. Trong đó, tập trung xây dựng và cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu về khí hậu, thủy văn, tài nguyên, môi trường phục vụ việc giám sát, dự báo, cảnh báo, đề xuất giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cơ sở dữ liệu về biến đổi khí hậu.
Thành phố cũng cần chủ động thúc đẩy các cơ chế hợp tác quốc tế để đẩy mạnh các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, hợp tác đầu tư và triển khai các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo khung pháp lý thuận lợi để tiếp nhận các nguồn hỗ trợ quốc tế, khai thác các dự án liên vùng, liên quốc gia; tích cực huy động nguồn lực cho các dự án giảm phát thải khí nhà kính, các dự án hỗ trợ tăng cường năng lực thích nghi với tác động của biến đổi khí hậu cho các khu vực và cộng đồng dễ bị tổn thương ở thành phố. Song song đó, tăng cường công tác tuyên truyền để cộng đồng dân cư chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường ngày càng tốt hơn.