Sự già hóa dân số dẫn đến sự chuyển dịch về gánh nặng bệnh tật. Trước đây, gánh nặng bệnh tật là các bệnh truyền nhiễm thì hiện nay chuyển sang các bệnh không lây nhiễm trong đó có SSTT. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, cứ ba giây thì thế giới có thêm một người bị SSTT và số người bị SSTT tăng lên gấp đôi sau mỗi 20 năm. Chi phí chăm sóc, điều trị người bệnh SSTT là khoảng 800 tỷ USD.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, khi chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 khi có 11% số dân là những người trên 60 tuổi và là một trong 10 nước có tốc độ già hóa nhanh nhất. Tốc độ già hóa nhanh trong bối cảnh vẫn là một nước có mức thu nhập trung bình thấp đã đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là trong công tác chăm sóc sức khỏe, khi trung bình mỗi người cao tuổi thường mắc các bệnh sau: Tim mạch, đái tháo đường, viêm phổi tắc nghẽn... điển hình nhất là SSTT.
SSTT là hội chứng lâm sàng được gây ra bởi tổn thương não, với đặc trưng là các biểu hiện suy giảm các lĩnh vực nhận thức như trí nhớ, định hướng, chú ý, ngôn ngữ, tri giác, suy luận, phán đoán, điều hành, khả năng thực hiện các nhiệm vụ liên tục. Ngoài rối loạn các lĩnh vực và nhận thức, người bệnh SSTT có thể có nhiều triệu chứng rối loạn tâm lý, hành vi. SSTT có thể gặp trong nhiều bệnh khác nhau trong đó phổ biến nhất là bệnh Alzheimer (chiếm từ 60% đến 80% tổng số các bệnh nhân SSTT).
Theo TS Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai), biểu hiện đầu tiên của bệnh SSTT là suy giảm trí nhớ, mà giai đoạn đầu chủ yếu là giảm trí nhớ ngắn hạn; tiếp đến, người bệnh có biểu hiện vong ngôn (nói lặp từ, khó tìm từ khi nói, thêm từ lạ, không gọi được tên đồ vật, nói, viết sai); vong tri (không nhận ra người quen cũ, người thân, nhận nhầm, không nhận ra đồ vật quen thuộc); vong hành (vụng về trong thao tác nghề nghiệp, khó khăn trong việc tự ăn uống, vệ sinh cá nhân, rối loạn trong trang phục, không sử dụng được công cụ, trang thiết bị trong gia đình); suy giảm khả năng điều hành (giảm khả năng tính toán, sáng tạo, lập kế hoạch, ra quyết định). Người bệnh còn có biểu hiện biến đổi nhân cách xuất hiện sớm: Thụ động (thờ ơ, cách ly xã hội), mất kiềm chế (nói năng linh tinh, tự cho mình là trung tâm, kích động rất thường gặp và thường nặng lên khi bệnh tiến triển, kích động về lời nói, hành động, các hành vi không phù hợp như đi lang thang…).
Nguyên nhân của SSTT là do thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer); SSTT thể Lewy; bệnh Parkinson; do rối loạn thần kinh và chấn thương (chấn thương sọ não, xơ cứng rải rác); do các bệnh nhồi máu não, xuất huyết não, viêm não; do rối loạn nội tiết (đái tháo đường, suy giáp, cường giáp); do sử dụng thuốc, lạm dụng chất (thuốc an thần, rượu, ma túy)... Do vậy, những người có các dấu hiệu sớm: Giảm trí nhớ làm rối loạn cuộc sống hằng ngày; khó khăn trong việc lên kế hoạch hoặc giải quyết vấn đề; khó khăn trong việc hoàn thành các nhiệm vụ quen thuộc; nhầm lẫn về thời gian và không gian; khó nhận biết về hình ảnh trực quan và mối quan hệ trong không gian; phát sinh vấn đề mới với từ ngữ khi viết, đọc; đặt nhầm chỗ các đồ vật và mất khả năng nhớ lại các bước để tìm lại đồ; giảm khả năng phán đoán hoặc ra quyết định; thu mình khỏi công việc hoặc hoạt động xã hội; thay đổi cảm xúc và nhân cách thì cần được tới gặp bác sĩ chuyên khoa để được thăm khám và đánh giá tình hình. Việc đưa người bệnh đến cơ sở y tế sớm sẽ giúp chẩn đoán đúng và có phác đồ điều trị phù hợp giúp chặn hoặc làm chậm quá trình SSTT cho người bệnh. Đáng chú ý, SSTT có thể khởi phát khi còn trẻ, song chủ yếu là ở tuổi già. Nếu như ở lứa tuổi 60 chỉ có khoảng 5% số người bị SSTT, thì đến mức 80 tuổi có tới một phần ba số người già mắc hội chứng này.
Các phương pháp điều trị phù hợp và chăm sóc toàn diện không những có thể làm giảm các triệu chứng mà còn làm chậm quá trình tiến triển của bệnh SSTT. Mặt khác, để phòng ngừa và làm chậm quá trình SSTT, người cao tuổi cần hoạt động trí não thường xuyên như đọc báo giấy, đọc sách, tham gia các buổi sinh hoạt... nên luyện tập thể dục đều đặn và nhẹ nhàng. Khi dùng các loại thuốc bổ não, dưỡng não cần có sự chỉ định, tư vấn của bác sĩ.