Nếu ghép từng mảnh quá khứ rời rạc của mọi người sẽ hiện hình như những thước phim tài liệu đen trắng. Có cả những âm thanh, hình ảnh và thậm chí cả "mùi vị" của một thời chưa xa...
Tôi có cảm giác như thế, khi cùng người bạn đồng niên quay trở lại thời bao cấp được dựng lại trong một ngôi nhà chật hẹp, nép khuất trong một góc đất trên "bán đảo" làng Ngũ Xã. Quá khứ của cả một thời thiếu thốn đủ thứ, khốn khó bộn bề nằm rải rác, tản mạn, ngay trong quá khứ của một lớp, một thế hệ. Nó nằm sâu, ẩn kín trong tâm trí và ký ức của mỗi người. Giờ người ta sưu tập, gom góp lại trong một không gian chật hẹp. Thời gian bị dồn nén ngay trong những đồ dùng, vật dụng thật xềnh xoàng, tầm thường mà nay người ta đã loại thải, đã vứt ra khỏi trí nhớ. Chiếc đèn bão, chiếc đài bán dẫn hay chiếc cặp lồng cơm thân thuộc, gắn bó với bao người, nay đã trở thành hiện vật như trong bảo tàng. Ông và tôi cùng ngỡ ngàng, một chút sững sờ, ngơ ngác, đứng lùi lại. Ðứng ở hiện tại để nhìn lại một quãng đời của mình đã thuộc về quá khứ. Ông trầm ngâm nói nhỏ, hồi ấy mình được một ông bạn đi nước ngoài về giấm giúi cho một bánh xà-phòng thơm. Mình không dám đem ra tắm mà cắt thành những miếng mỏng nhỏ. Giấu vào trong túi áo, tủ quần áo giữ cho mùi thơm mãi. Ðến bây giờ, bao loại dầu gội đầu hảo hạng cũng không thể quên chút hương xưa. Tôi thì nhớ, có một anh bạn đi Tây về cho quả táo chỉ nhỉnh bằng nắm tay trẻ con. Ông bố cứ xuýt xoa mãi rồi cắt thành bảy miếng mỏng dính chia cho cả nhà. Nay táo ăn đến phát chán, phát sợ, mà cứ nhớ mãi mùi táo hồi ấy thoang thoảng đâu đây. Hương vị, mầu sắc, âm thanh của quá khứ dù có cố dốc trong người đổ đi, trút bỏ cũng không được. Nhất là khi tôi đưa ông bạn đến một góc Bảo tàng Dân tộc học. Ðây mới thực là quá khứ trọn vẹn, nguyên chất để hai chúng tôi bước vào.
Trong khi tôi và ông chầm chậm từng bước như đi giật lùi, ngược thời gian, thì trong phòng trưng bày chỉ thấy một hai đôi trai gái. Họ bước rất nhanh, thỉnh thoảng dừng lại, chỉ trỏ, cười nói. Có lẽ họ cũng như chúng tôi đang xem một cuốn phim tài liệu đã quá nhiều vết xước, rách. Mà lại là phim câm, không tiếng động và không thuyết minh. Thật khó hiểu, thật vô vị. Hiểu sao được những tháng năm đã khuất xa, chẳng để lại dấu vết gì. Hình dung sao nổi những sáng sớm mùa đông rét buốt tái tê, mở mắt ra là cắm cổ đạp xe đến cửa hàng thịt, đậu, dầu hỏa. Xếp hàng bằng rổ rá, can nhựa, chầu chực, đợi chờ. Niềm vui ngày ấy sao mà nhỏ bé, tội nghiệp. Mua được gạo trắng ít sạn hay túi mì gia công không vón cục. Bốc thăm được cái săm, lốp xe đạp hoặc chiếc quạt con cóc... là mặt mũi tươi rói, hoan hỉ suốt cả tháng trời. Những chuyện vặt không đâu như thế vẫn đầy ắp trong ông và tôi, và bao người...
Chuông đột ngột vang lên, đã đến giờ đóng cửa bảo tàng. Chúng tôi bước ra ngoài như thể thoát ra khỏi quãng đời kham khổ, chật vật. Lát nữa mỗi người mỗi ngả. Ông vào Nam sống với con cháu. Tôi thì không rời Hà Nội nửa bước. Chép miệng, thở dài, ông bảo, giờ sống không phải lo chạy ăn từng bữa mà lại cảm thấy buồn, thấy lo lắng hơn ngày trước, lạ thật! Lo con cháu có tránh được những va chạm, tệ nạn ngoài xã hội. Giật mình nghe những vụ án này, án kia. Con cháu chỉ cười khi thấy ông quá lo xa chuyện này, việc nọ. Nỗi lo nỗi buồn của ông cũng giống tôi. Làm gì có nỗi buồn nhỏ, buồn lớn. San sẻ cho nhau, nỗi buồn cũng vơi nhẹ phần nào. Thời mình chưa xa, ông nói, nhưng với con cháu thì đã quá xưa rồi. Mình cứ hay nuối tiếc, hoài niệm, nhớ thương những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Như thế liệu có phải là hoài cổ không nhỉ? Ông hỏi trước khi chia tay nhau. Không ai trả lời được câu hỏi bỏ lửng đó. Cũng như không ai hiểu vì sao mỗi khi nghĩ về, kể về thời chưa xa ấy đều thấy cái gì cũng đáng quý, đáng giữ gìn. Tôi thầm nghĩ, có lẽ ông nói đúng. Thời khốn khó, thiếu thốn, cái gì cũng thấy quý, trân trọng. Có lẽ những thứ mất đi đều cảm thấy tiếc nuối giữa một cuộc sống vật chất đầy đủ mà vô vị. Vô nghĩa. Nhưng tôi vẫn tâm niệm, sống với hôm nay chứ chẳng ai sống với quá khứ, cốt sao đừng quên nhưng gì sau lưng mình.